Thứ Ba, 31 tháng 1, 2012

Con trai út Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng làm cán bộ Đoàn

Tin cho hay con trai út Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, thạc sỹ Nguyễn Minh Triết, đã từ Anh trở về Việt Nam để làm cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản ở cơ sở.

Báo Tiền Phong của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong bài 'Góp sức trên quê nhà' đăng ngày 28/1 đưa tin anh Triết, người từng giữ chức Chủ tịch Hội sinh viên Việt Nam tại Anh, đã "được cấp học bổng học tiếp Tiến sỹ, làm giảng viên cùng những cơ hội công việc hấp dẫn khác, nhưng anh chọn trở về".


Thạc sỹ Nguyễn Minh Triết, 23 tuổi, là con trai út của thủ tướng đương nhiệm. Anh có anh trai là Nguyễn Thanh Nghị, 35 tuổi, Thứ trưởng bộ Xây dựng; và chị gái là Nguyễn Thanh Phượng, 32 tuổi, thành viên Hội đồng Quản trị Ngân hàng Bản Việt.

Anh Triết về Việt Nam sau khi du học bảy năm, chủ yếu tại Đại học Queen Mary, London, chuyên ngành Kỹ thuật Hàng không và Chế tạo máy.

Anh nhận bằng thạc sỹ với đề tài Kỹ thuật động cơ siêu thanh; và đã có sáu tháng thực tập tại công ty danh tiếng Rolls Royce.

Từ tháng 11/2011, Nguyễn Minh Triết đã tham gia phong trào đưa cán bộ trẻ về xã trong vị trí cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản cấp cơ sở.

Có lẽ anh là cán bộ Đoàn cơ sở có học vị cao nhất hiện nay.

Bài báo trên Tiền Phong không nói rõ công việc của anh Triết là gì, nhưng viết vừa nhận việc anh đã "xách ba lô cùng các cán bộ Đoàn rong ruổi Bắc Nam để nắm bắt tâm tư nguyện vọng của học sinh-sinh viên và bạn trẻ".

Trước khi về nước, Nguyễn Minh Triết cũng đã có sáng kiến thành lập Trung tâm Phát triển Tri thức với mục tiêu kết nối du học sinh Việt Nam ở các nước ngoài.

Báo Tiền Phong viết: "Từ lâu Minh Triết đã mang dáng dấp của một cán bộ Đoàn năng động, nhiều sáng kiến".

Bài nói về anh Nguyễn Minh Triết còn tiết lộ cán bộ Đoàn trẻ tuổi này "chưa vội chuyện tình yêu".

Bộ Công an điện: Tăng cường đảm bảo an ninh trật tự sau Tết Nguyên đán

Thượng tướng, Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang vừa có điện chỉ đạo việc tăng cường đảm bảo trật tự an toàn xã hội sau Tết Nguyên đán.


Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang động viên các chiến sỹ cảnh sát cơ động chuẩn bị vào ca trực trong dịp Tết Nhâm Thìn. Ảnh: Chinhphu.vn

Trong điện gửi Thủ trưởng các Tổng cục, các đơn vị trực thuộc Bộ; Giám đốc Công an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Giám đốc các Sở Cảnh sát Phòng cháy và Chữa cháy, Bộ trưởng Trần Đại Quang biểu dương công an các đơn vị, địa phương đã triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các biện pháp đảm bảo an ninh, trật tự trước và trong những ngày Tết, góp phần phục vụ nhân dân đón Xuân, vui Tết đầm ấm.

Về tình hình an ninh, trật tự: Số vụ phạm pháp hình sự trong dịp Tết giảm 0,8%, không để xảy ra các vụ án đặc biệt nghiêm trọng. Do đẩy mạnh công tác ngăn chặn, xử lý nghiêm các trường hợp sản xuất, buôn bán, vận chuyển, tàng trữ và đốt pháo nổ trái phép, nên tình trạng đốt pháo nổ giảm hẳn.

Tai nạn giao thông giảm 25,3% số vụ, 32,6% số người chết và 33,1% số người bị thương so với Tết năm trước, không để xảy ra ùn tắc giao thông, đua xe trái phép.

Lãnh đạo Bộ Công an ghi nhận và biểu dương tinh thần nỗ lực, khắc phục khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của cán bộ, chiến sĩ các đơn vị cảnh sát, an ninh và công an các địa phương: Hà Nội, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Bà Rịa – Vũng Tàu, Cần Thơ, Kiên Giang, Sóc Trăng, Tây Ninh.

Tuy nhiên sau Tết Nguyên đán còn nhiều lễ hội, cán bộ, viên chức trở lại công sở làm việc, học sinh, sinh viên trở lại trường học, lưu lượng người, phương tiện tham gia giao thông sẽ tăng đột biến, đây cũng là thời điểm bọn tội phạm hình sự lợi dụng hoạt động phạm tội. Vì vậy, lãnh đạo Bộ Công an yêu cầu ccông an các đơn vị, địa phương tiếp tục thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Ban Bí thư, Chính phủ và Bộ Công an về đảm bảo an ninh trật tự những ngày sau Tết, trong đó khẩn trương điều tra, làm rõ các vụ án đặc biệt nghiêm trọng, nhất là các vụ gây nổ có tính chất khủng bố, trả thù cá nhân.

Các lực lượng tập trung đấu tranh với các đối tượng trọng điểm về hình sự, ma túy, kinh tế, môi trường, tội phạm sử dụng công nghệ cao, triệt phá các băng nhóm lưu manh chuyên nghiệp, hoạt động theo kiểu “xã hội đen”, tội phạm chống người thi hành công vụ, gây rối trật tự công cộng, tội phạm cờ bạc, trộm cắp, cướp giật trong các lễ hội…

Bên cạnh đó, ngành Công an tổ chức tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm các đối tượng, hành vi vi phạm là nguyên nhân trực tiếp gây ra tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông. Tăng cường phối hợp 3 lực lượng: Cảnh sát giao thông, Cảnh sát điều tra về trật tự xã hội, Cảnh sát cơ động xử lý nghiêm đối tượng càn quấy, tụ tập gây rối trật tự công cộng, đua xe trái phép, đồng thời tăng cường công tác quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ.

Thành Chung

Chủ Nhật, 29 tháng 1, 2012

10 tổ chức tình báo tốt nhất thế giới Phần 1

Với nhiệm vụ thu thập thông tin quan trọng về các quốc gia ngoại quốc, các cơ quan tình báo trở thành biểu tượng sức mạnh của mỗi quốc gia.
(ĐVO) Cơ quan tình báo thường trực thuộc trực tiếp chính phủ với nhiệm  vụ tìm kiếm các thông tin đáp ứng nhiệm vụ an ninh quốc gia và quốc phòng.  Hoạt động của thành viên cơ quan này thường nằm ngoài tầm theo dõi của công chúng nói chung.

Những thành công của các cơ quan thường thầm lặng và ít được biết rộng rãi ngay tại thời điểm họ thực hiện. Trong khi đó, những thất bại lại luôn trở thành tiêu đề chỉ trích chính trên các mặt báo.

Dưới đây là danh sách 10 cơ quan tình báo hoạt động tốt nhất trên thế giới, dựa trên tỷ lệ thành công cũng như kiểm soát tình hình một cách hiệu quả.

Cơ quan CSIS (Canada)

Thành lập ngày 21/6/1984 dưới tác động của Hội đồng Hoàng gia Canada nhằm tách hoạt động tình báo khỏi cảnh sát, Cơ quan tình báo an ninh Canada (CSIS) đặt trụ sở chính tại số 1941 đường Ogilvie, Ottawa, bang Ontario.

CSIS chịu trách nhiệm trước Nghị viện thông qua Bộ trưởng An ninh Công cộng và dưới sự giám sát của Hệ thống Tòa liên bang, Thanh tra trưởng của CSIS và Hội đồng Đánh giá Tình báo An ninh (SIRC).

Quy mô của CSIS gồm khoảng 2.449 nhân viên với ngân quỹ hàng năm khoảng 506,7 triệu USD (theo dự toán ngân sách giai đoạn 2010-2011).

Giống như MI5 của Anh và CIA của Mỹ, về mặt danh nghĩa, CSIS là cơ quan dân sự, không thuộc cảnh sát hay quân đội. Tuy nhiên, hoạt động gắn liền chặt chẽ. Nhiệm vụ chính của CSIS là “tình báo an ninh” liên quan đe dọa an ninh quốc gia như chủ nghĩa khủng bố, chống gián điệp và “tình báo nước ngoài” là thu thập các thông tin liên quan hoạt động chính trị, kinh tế của nước ngoài.

Giai đoạn hậu Chiến tranh thế giới II, CSIS hợp tác cùng cơ quan tình báo của Anh, Mỹ, Australia để chia sẻ các thông tin tình báo liên quan các nước Xã hội Chủ nghĩa.

Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, CSIS được giao nhiệm vụ theo dõi các gián điệp ở Canada dựa nhiều vào việc sử dụng “thiết bị công nghệ” để vén màn các hoạt động gián điệp. Thời gian gần đây, CSIS tham gia vào liên minh chống gián điệp từ nhóm tình báo của Trung Quốc.

Một nhiệm vụ khác của CSIS là ngăn chặn người nhập cư bất hợp pháp vào Canada có nguy cơ an ninh tiềm ẩn với đất nước.

Cơ quan ASIS (Australia)

Cơ quan tình báo Australia được thành lập ngày 13/5/1952, là cơ quan tình báo của chính phủ chịu trách nhiệm thu thập thông tin tình báo nước ngoài, tham gia hoạt động hợp tác tình báo với cơ quan ngoài nước nhằm bảo vệ các lợi ích sống còn của Australia.

Đặt trụ sở chính  tại Canberra, số nhân viên chính thức của ASIS không được công khai. Theo số liệu 2009, ngân sách hàng năm dành cho cơ quan này là 263,3 triệu USD Australia.

Bản thân sự tồn tại của ASIS cũng là bí hiểm đối với không ít thành viên chính phủ, thậm chí đã từng “tàng hình” trong suốt 20 năm.

Mãi đến 1/11/1972, hoạt động của ASIS mới được tờ Daily Telegraph phơi bày trước công luận sau khi phát hiện việc tuyển dụng đặc vụ ASIS từ các trường đại học để làm gián điệp ở châu Á.

Nhiệm vụ chính của ASIS là thu thập thông tin chủ yếu từ châu Á và Thái Bình Dương thông qua các trụ sở tình báo đặt ở nhiều nơi.

Con đường hoạt động của ASIS không êm đẹp. Hàng loạt cú sốc giai đoạn những năm 1980-1990 đã khiến chính phủ Australia tiến hành các điều tra chi tiết, dẫn đến sự cải tổ toàn diện của cơ quan này.

Mãi đến 2001, với đạo luật Hoạt động Tình báo, ASIS đã có cơ sở pháp lý về hoạt động  được công khai với công chúng.

Bằng phân tích và xử lý thông tin tình báo, cơ quan này sẽ cung cấp thông tin tình báo tối mật về khả năng, năng lực, ý định và hoạt động của các cá nhân, tổ chức bên ngoài Australia có khả năng tác động tới lợi ích của đất nước và công dân Australia.

Cơ quan RAW (Ấn Độ)

Sau khi trải qua 2 cuộc chiến liên tiếp, Ấn Độ-Trung Quốc (năm 1962) và Ấn Độ-Pakistan (năm 1965), Chính phủ Ấn Độ nhận ra sự yếu kém trong hoạt động thu thập thông tin có tác động nghiêm trọng như thế nào.

Chính vì vậy, Cơ quan Nghiên cứu và Phân tích (RAW) được thành lập ngày 21/9/1968, là tổ chức tình báo bên ngoài Ấn Độ, còn hoạt động tình báo trong nước sẽ chỉ do Cục Tình báo đảm nhiệm.

Trụ sở chính của RAW đặt tại New Delhi với giám đốc là Sanjeev Tripathi. Ngân sách và nhân lực của cơ quan này không  được công bố.

Nhiệm vụ giao phó cho RAW rất đa dạng từ khi bắt đầu thành lập, bao gồm: kiểm soát các phát triển về chính trị, quân sự của các nước láng giềng.

Sự tập trung của RAW là tới Pakistan và Trung Quốc, hai đối thủ hàng đầu của nước này. Ngoài ra, RAW còn thực hiện việc kiểm soát và hạn chế nguồn cung cấp hàng hóa quân sự từ các nước châu Âu, Mỹ tới Pakistan.

Một điểm đặc biệt, các thành công của RAW được công chúng biết đến khá rộng rãi, ví dụ như: Hỗ trợ việc Bangladesh trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập của nước này thông qua việc huấn luyện và trang bị vũ khí cho nhóm vũ trang Mukti Bahini.

RAW còn đảm bảo bí mật cho chương trình hạt nhân đầu tiên của Ấn Độ trong chiến dịch Phật cười và tham gia chống chủ nghĩa Apartheid ở các nước châu Phi độc lập, đặc biệt ở Nam Phi và Namibia.

Cơ quan này còn phối hợp với Mỹ trong việc cung cấp thông tin về cơ sở huấn luyện đào tạo của Taliban ở Afghanistan và Pakistan cũng như các thông tin về các cuộc tấn công của Osama bin Laden.

Cơ quan MOSSAD (Israel)

Mossad (Cơ quan tình báo và Chiến dịch Đặc biệt) được thành lập ngày 13/12/1949, có trụ sở tại Tel Aviv với số đặc vụ khoảng 1.200 người), nằm dưới sự chỉ đạo của văn phòng Thủ tướng Israel.

Mossad là một trong ba trụ cột của Cộng đồng Tình báo Israel, bên cạnh Aman (cơ quan tình báo quân sự) và Shin Bet (cơ quan tình báo quốc nội).

Nhiệm vụ chính của Mossad là thu thập thông tin tình báo và hoạt động bí mật, bao gồm cả việc ám sát mục tiêu và hoạt động bán quân sự bên ngoài lãnh thổ Israel như đưa người Hồi giáo về Israel từ các nước mà việc di cư của người Hồi giáo bị cấm hay bảo vệ cộng đồng Hồi giáo trên toàn thế giới.

Các thành tích của Mossad có thể ghi thành một danh sách dài ngay kể từ khi mới thành lập. Năm 1960, các đặc vụ Mossad đã phát hiện cựu lãnh đạo phát xít Đức, Adolf Eichmann đang sống ở Arghentina với tên giả là Ricardo Klement và thực hiện sự trả thù cho những nạn nhân Do Thái.

Vào tháng 8/2011, Mossad đã có được nhiều thông tin về cuộc tấn công vào các địa điểm “dễ bị tổn tại” tại nước Mỹ và cảnh báo FBI, tuy nhiên không nhận được sự phản hồi hợp lý. Chính vì thế, các phần tử khủng bố đã thành công trong vụ tấn công 11/9 mà không có sự phản ứng kịp của tình báo Mỹ nói riêng và hệ thống an ninh-quốc phòng Mỹ.

Mossad cũng tiến hành việc bắt cóc một công dân Israel đã tố giác chương trình hạt nhân của nước này từ Anh về Italy. Cơ quan này còn hỗ trợ MI5 của Anh trong việc nhận dạng các tên khủng bố al-Qaeda, cầm đầu trong vụ khủng bố ga tàu điện ngầm ở Anh.

Cơ quan BND (Đức)

Trực thuộc sự quản lý của Văn Phòng Thủ tướng, có trụ sở tại Pullach (gần Munich) và Berlin, cơ quan tình báo Đức có lịch sử tròn 55 năm. Theo số liệu năm 2005, lượng đặc vụ của BND khoảng 6.050 người. Ngân sách dành cho cơ quan này năm 2009 là 460 triệu Euro.

Cơ quan tình báo này có khoảng 300 trụ sở hoạt động ở Đức và các nước ngoài. Với vai trò là hệ thống cảnh báo sớm tới chính quyền Đức về các đe dọa lợi ích tới đất nước từ các quốc gia bên ngoài. BND phụ thuộc nhiều vào việc nghe trộm và các thiết bị do thám điện tử đối với việc liên lạc quốc tế.

BND thu thập và đánh giá các thông tin trên nhiều lĩnh vực như: khủng bố quốc tế, phổ biến vũ khí giết người hàng loạt, chuyển giao công nghệ trái phép và tổ chức tội phạm. Phạm vi hoạt động của BND gồm cả tình báo quân sự và dân sự.

Ban đầu, là cơ quan tình báo của Tây Đức, BND đã giành nhiều thành công trong giai đoạn căng thẳng Đông-Tây Đức, với việc hiểu biết rõ về từng chiếc cầu, bệnh viện, độ dài của sân bay hay thậm chí độ rộng của con đường của phía Đông Đức.

Một trong những thành công nhất là việc BND đã dự đoán chính xác về Chiến tranh 6 ngày ở Trung Đông hồi đầu tháng 6/1967. Lãnh đạo của BND đã thông báo cho CIA về ngày giờ cụ thể mà Israel sẽ tấn công một loạt các nước ở khu vực này.

BND cũng đóng vai trò quan trọng trong vai trò làm trung gian để tiến hành thỏa thuận bí mật giữa Israel - Hezbollah, từ đó tiến tới trao đổi tù nhân giữa 2 nước năm 2008.

Thứ Bảy, 21 tháng 1, 2012

Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh: Tôi tự hào với quân hàm “binh bét”

Một chiều cuối năm, chúng tôi gõ cửa căn nhà nằm sâu trong ngôi làng ven sông, nơi ít nhiều còn giữ được sự yên tĩnh của chốn làng quê dù chỉ cách hồ Gươm hơn mười cây số. Một người đàn ông trong bộ quần áo giản dị ra mở cửa đón khách.
Đó là Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, thứ trưởng Bộ Quốc phòng.

Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh

Chủ nhà chọn nơi tiếp khách là thư viện gia đình, nơi chứa cả ngàn đầu sách và tài liệu. Có đủ loại sách về tư tưởng của các vĩ nhân, sách nghiên cứu, tiểu thuyết võ hiệp, truyện trinh thám… Tất cả đều gọn gàng, ngăn nắp và được xếp theo chủ đề.

Bất ngờ, tướng Vịnh hỏi chúng tôi đã đọc hai tập sách Hồng Kông thủa ấy chưa? “Một tác phẩm hay của James Clavell, tên nguyên bản là Tai-Pan. Rất đáng tìm đọc, nhiều khi văn học và lịch sử giúp ta sáng lên ý tưởng cho những vấn đề thời sự hiện nay”.

Mong tổ chức du lịch ra Trường Sa

Khách và chủ nhà trò chuyện từ chập tối đến tận khuya, bắt đầu từ câu chuyện về những ngày giáp Tết cách đây vừa tròn một năm. Tướng Vịnh kể:

- Cuối năm, tôi ra Trường Sa, đi chúc tết bộ đội và nhân dân trên đảo. Đây không phải lần đầu đến với Trường Sa nhưng đúng là chỉ sau một vài năm không ra đảo, tôi đã thấy được sự thay đổi ở đây lớn lao biết chừng nào. Tôi đến từng gia đình trên đảo, trò chuyện với bà con, nhiều người nói với tôi rất ngắn gọn: “sống được”. Có thể thấy sự hài lòng về cuộc sống bình yên ánh lên trong mắt họ. Trường Sa bây giờ cơ bản “điện thừa nước đủ”. Đêm xuống, khi chúng ta ngắm Trường Sa sẽ thấy như một thành phố nổi trên biển lung linh với những ánh đèn rực sáng.

Cũng như nhiều người khác có dịp ra Trường Sa, tôi thắp hương ở đền thờ Bác Hồ, ngôi đền xây dựng rất trang nghiêm ở đảo Trường Sa Lớn. Chúng ta cũng đã có các ngôi chùa ở đảo Trường Sa Lớn và Song Tử Tây. Tại mỗi nơi có một tượng phật ngọc do Liên đoàn Phật giáo thế giới trao tặng Thủ tướng Chính phủ và được Thủ tướng cung tiến ra Trường Sa. Hai tượng phật ngọc này rất quý giá không những về giá trị, mỹ thuật mà còn về ý nghĩa tâm linh. Có một điều đặc biệt là mỗi viên gạch, mỗi viên ngói xây dựng các công trình trên đảo đều có dòng chữ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và quốc huy.

Tôi nhớ bữa cơm đầu tiên ở Trường Sa, khi anh em bộ đội làm thịt một con lợn nuôi trên đảo để đãi khách quý, miếng thịt mặn chát. Vị mặn biển Đông chứ không phải mặn do chế biến. Và dư vị ấy thì còn mãi. Vào dịp Tết, khách ra đảo thường được tặng một quả bàng vuông. Tôi đã đem quả bàng đó về đặt lên bàn thờ Tổ quốc, như một thứ quả mới bổ sung vào mâm ngũ quả Tết truyền thống dân tộc…

Bác Hồ và gia đình các ông Nguyễn Chí Thanh, Trần Đăng Ninh và Nguyễn Sơn tại Phủ Chủ tịch, tháng 1-1968. Ông Nguyễn Chí Vịnh lúc ấy là cậu bé đứng bên Bác - Ảnh tư liệu gia đình

* Nếu không phải với tư cách một vị tướng mà là một công dân, ông mong muốn điều gì sau khi ra Trường Sa?

- Tôi mong muốn khi có điều kiện thuận lợi, chúng ta tổ chức cho bà con trong nước cũng như Việt kiều yêu nước đi du lịch ra Trường Sa. Đây sẽ là một điểm du lịch vô cùng ý nghĩa. Những chuyến công tác nước ngoài, nếu có dịp tiếp xúc với bà con Việt kiều, tôi thường kể câu chuyện Trường Sa và sau khi nghe thì bà con rất ngạc nhiên, xúc động. Tôi tin rằng là người Việt Nam, bất cứ ai có dịp ra Trường Sa thì tình cảm của họ đối với đất nước sẽ có những thay đổi rất lớn. Và họ sẽ hiểu đất nước mình đã làm tất cả những gì có thể để bảo vệ Trường Sa, bảo vệ chủ quyền trên biển Đông.

* Bất cứ người Việt Nam nào cũng quan tâm đến chủ quyền Tổ quốc, quan tâm đến vận mệnh của quê hương, xứ sở. Sau một năm Việt Nam có rất nhiều sự kiện quan trọng về kinh tế, đối ngoại, quốc phòng…, ông đang nghĩ gì về tương lai đất nước?

- Trong bất cứ giai đoạn nào của mỗi đời người hay lớn hơn là mỗi quốc gia, những cơ may, vận hội luôn đi kèm với thách thức. Điều quan trọng là chúng ta phải nhìn thấy những vấn đề sẽ quyết định đến sự phát triển lâu dài của đất nước.

Đất nước chúng ta hôm nay bộn bề các vấn đề cần giải quyết, nhưng suy nghĩ của tôi là thế nước đang lên. Nếu nhìn vào đại cục sẽ thấy có rất nhiều lý do để nhận xét như vậy. Đầu tiên phải nói đến là chúng ta có sự ổn định chính trị, giữ được trật tự xã hội và bảo vệ vững chắc bờ cõi quốc gia. Về kinh tế, Việt Nam vẫn là một nước đang phát triển, nhưng theo thời gian thì ngày càng có nhiều nước thừa nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường đầy đủ. Một nền kinh tế thị trường đầy đủ với định hướng xã hội chủ nghĩa, chính là nền kinh tế thị trường không có hai giá, không phân biệt công tư. Trong quan hệ quốc tế, chúng ta có được sự tin cậy của bạn bè quốc tế. Người ta tin chúng ta thân thiện, chúng ta thực tâm mong muốn hợp tác phát triển với cộng đồng quốc tế.

Có thể thấy rằng trong 5-10 năm tới còn nhiều khó khăn, nhưng đất nước sẽ có những bước phát triển, với một điều kiện giữ bằng được ổn định chính trị và định hướng quản lý thống nhất của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

* Vậy đâu là thời cơ và đâu là thách thức của đất nước ta về mặt quốc phòng an ninh, theo suy nghĩ của một nhà quân sự?

- Với tư cách một nước đang phát triển và cần có môi trường hòa bình, ổn định để phát triển, vấn đề đặt ra cho Việt Nam là những câu chuyện mà các nước lớn đang nói với nhau có ảnh hưởng gì đến chúng ta? Cần phải đặt câu hỏi này trong một bối cảnh quốc tế đang có những thay đổi rất cơ bản, rất lớn lao, nhất là sau những sự kiện như ở Bắc Phi – Trung Đông và trước đó ở Afghanistan, Iraq, Nam Tư…
Ở đâu cũng vậy, khi có lợi ích thì mọi bên đều muốn can dự. Tất nhiên nếu đã can dự thì sẽ có điểm đồng nhưng cũng có điểm bất đồng, chính vì vậy những vấn đề an ninh khu vực của chúng ta tự nhiên nóng lên. Chúng ta đã nghe những tuyên bố về chủ quyền của một số nước và đã nghe những thông điệp rất mạnh mẽ… Đằng sau những lời phát biểu đó, thấp thoáng đâu đây các tàu sân bay, chiến hạm, các máy bay thế hệ mới… Nguy cơ lớn nhất chính là một cuộc chạy đua vũ trang mới, một cuộc chiến tranh lạnh mới và một chiến lược “ngoại giao chiến hạm” mới của các nước lớn. Điều này đã manh nha xuất hiện ở khu vực. Chúng ta phản đối, không đồng tình với xu hướng phát triển như vậy, đồng thời tuyệt đối không cuốn theo chiều hướng đó. Với những người yêu hòa bình, những quốc gia yêu hòa bình thì phải làm hết sức để ngăn chặn và hóa giải nguy cơ trên, không được để va chạm của các nước lớn ảnh hưởng đến hòa bình khu vực và sự ổn định của đất nước mình.

Gia đình Đại tướng Nguyễn Chí Thanh tại nhà số 34 Lý Nam Đế, năm 1964 - Ảnh tư liệu gia đình

* Nhưng biển Đông có yên tĩnh hay không, đâu chỉ phụ thuộc vào Việt Nam?
- Trong vấn đề biển Đông phải xem xét trên những vấn đề về lịch sử, những tuyên bố về chủ quyền và lợi ích quốc gia. Đâu là nguyên tắc giải quyết vấn đề lợi ích? Có ba điểm cơ bản. Thứ nhất, chủ quyền của mỗi nước. Đây là điểm bất di bất dịch, không thay đổi. Chúng ta muốn có hòa bình, muốn ổn định để phát triển nhưng cũng sẵn sàng chấp nhận tất cả để giữ được chủ quyền lãnh thổ. Thứ hai, chia sẻ lợi ích. Chia sẻ chủ quyền lãnh thổ là không thể, nhưng chia sẻ lợi ích có thể trở thành con đường để giải quyết những khác biệt, tranh chấp. Thứ ba, phải tuân thủ luật pháp quốc tế và không để các thế lực khác chen vào, can dự vào những vấn đề của chính chúng ta.

Trong các mối quan hệ an ninh của thế giới, không có mối quan hệ nào đơn thuần giữa hai nước với nhau. Một vấn đề nào đó giữa Việt Nam và Trung Quốc luôn gắn với bàn cờ chung của thế giới, nhưng trong những vấn đề của hai nước thì Việt Nam và Trung Quốc là hai người chơi chủ yếu, sao cho không để bên khác chen vào trục lợi. Nguyên tắc cơ bản là anh này phải tôn trọng chủ quyền và lợi ích của anh kia. Ví dụ như việc Trung Quốc tuyên bố về đường lưỡi bò có lợi cho ai? Tôi nghĩ rằng không có lợi cho Việt Nam và cũng hoàn toàn không có lợi cho Trung Quốc, mà đã làm dấy lên dư luận quốc tế không tốt cho Trung Quốc, có lợi cho các thế lực khác.

Ta phải giữ cho được toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế; quan tâm xây dựng tiềm lực của đất nước, trong đó quan trọng nhất là tiềm lực kinh tế, không ngừng cải thiện đời sống người dân. Và cũng phải đặc biệt chú ý đến quan hệ quốc tế để có sự ủng hộ của cộng đồng thế giới, ngay cả khi trời yên biển lặng cũng như lúc phong ba sóng lớn. Chúng ta không tham gia vào những xung đột lợi ích của các nước lớn và điều tôi muốn nói là Việt Nam phải tránh mọi cuộc chiến tranh, trước hết là những xung đột trên biển Đông. Nếu có chiến tranh, có xung đột thì sẽ là thảm họa của dân tộc và là bất hạnh cho từng gia đình.

Tôi rất thích lắng nghe các bạn trẻ trò chuyện

* Nhìn lại năm qua, trước những sự kiện liên quan đến biển Đông, nhiều bạn trẻ đã xuống đường để biểu thị lòng yêu nước. Ông có điều gì muốn nói với họ?
- Nếu được, tôi chỉ muốn chia sẻ suy nghĩ của mình với các bạn trẻ như một người bạn. Với lòng yêu nước, với phản ứng của tuổi trẻ, việc một số bạn trẻ xuống đường để biểu thị thái độ của mình là điều có thể hiểu được. Nhưng mục đích cuối cùng của tất cả chúng ta là giữ được chủ quyền trên biển Đông. Từ cách tiếp cận đó, chúng ta sẽ thấy rằng đâu phải phản ứng ngay mà đạt được mục đích. Điều quan trọng nhất là làm đất nước mình mạnh lên, trước hết là ổn định về chính trị. Không ổn định về chính trị thì không thể có đất nước mạnh. Nhìn ra thế giới chúng ta dễ dàng thấy điều đó. Trong tác phẩm Hồng Kông thủa ấy cũng đã nói lên một điều, với bất cứ quốc gia nào khi đất nước mạnh lên, theo đó chủ quyền sẽ được thu hồi và bảo vệ đầy đủ. Ở đây có một vấn đề chúng ta cần quan tâm nhiều hơn nữa, đó là lòng dân. Chính quyền phải luôn nhớ rằng phải có sự ủng hộ của nhân dân, ngược lại nhân dân cũng cần chia sẻ với chính quyền trong những thời điểm khó khăn.

Để đất nước mạnh lên, chúng ta phải làm chủ về khoa học kỹ thuật, phải có sức mạnh kinh tế… và nói đến những vấn đề này thì chỉ có thể trông cậy vào thế hệ trẻ. Chính những người trẻ bằng năng lực hội nhập, bằng ý chí vươn lên mạnh mẽ, bằng sự hiểu biết sâu sắc về khoa học kỹ thuật sẽ định vị thế đứng Việt Nam trên trường quốc tế. Không phải ai khác, chính các bạn trẻ sẽ là những người nghĩ ra các giải pháp để đóng góp cho Nhà nước trong việc giải quyết từng bước vấn đề biển Đông. Tôi muốn nói rằng bờ mạnh thì biển mới vững, người giỏi thì đất nước mới hùng cường. Tất nhiên, khi đất nước thật sự cần, tuổi trẻ sẽ là những người đầu tiên dám hi sinh tất cả vì Tổ quốc mình.

* Bằng trải nghiệm của mình, ông nhìn thấy điều gì ở các bạn trẻ hiện nay?

- Tôi rất thích lắng nghe các bạn trẻ trò chuyện. Nhiều lần tôi đi cùng một vài bạn đang ở độ tuổi thanh niên đến quán cà phê hoặc những nơi mà các bạn trẻ gặp gỡ nhau. Tôi lắng nghe các bạn trẻ nói về tình hình đất nước, về kinh tế, về chính trị, về biển Đông… Có thể điều này, điều khác các bạn nói chưa đúng hoặc chưa thật chuẩn xác, nhưng đó là tiếng nói của tương lai đất nước và cũng chính là một trong những thước đo chính xác nhất về thời cuộc.

Một số ý kiến cho rằng thanh niên bây giờ kém hơn trước đây, dường như ích kỷ hơn, dường như quan tâm đến các thú vui chơi giải trí nhiều hơn, nhưng tôi không nghĩ như vậy. Thanh niên lúc nào cũng là thanh niên và chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào tương lai đất nước nếu nhìn vào lớp trẻ hiện nay. Chỉ có điều phải làm sao để những giá trị truyền thống, những điều tích cực về quản lý và giáo dục thanh niên trước đây phát huy được trong bối cảnh mới.

Cũng có ý kiến nói giới trẻ Việt Nam “trưởng thành chậm”, với ý là chúng ta chưa có những người trẻ ở vào vị trí dẫn dắt cộng đồng, trong khi nhiều cường quốc trên thế giới có lãnh đạo ở độ tuổi rất trẻ… Trước hết, phải nói về phong tục tập quán châu Á, thông thường muốn ở vào vị trí dẫn dắt thì phải là một người từng trải, nhiều kinh nghiệm. Bên cạnh đó, cơ chế cán bộ của ta khác so với nhiều nước. Nhưng hiện nay, nhiều bộ ngành của chúng ta có cán bộ các cấp ở vào độ tuổi khá trẻ, ví dụ như Bộ Ngoại giao với rất nhiều đại sứ trẻ, hay là nhiều tập đoàn, tổng công ty kinh tế mạnh với không ít gương mặt lãnh đạo rất trẻ, rất giỏi…

Đại tướng Nguyễn Chí Thanh và “binh bét” Nguyễn Chí Vịnh, năm 1963 - Ảnh tư liệu gia đình

* Ông nói muốn biết thanh niên hiện nay đọc gì. Vậy qua quan sát của ông, giới trẻ đang đọc gì?

- Những lúc có thời gian rảnh rỗi, tôi hay ra phố bán sách ở Nguyễn Xí, không chỉ để chọn sách cho mình mà còn muốn biết thanh niên hiện nay đang đọc cái gì. Trước sự bùng nổ thông tin và phát triển vượt bậc của công nghệ, văn hóa đọc phần nào đã bị mai một. Đây là điều đáng buồn. Trước đây, đã có những cuốn sách gối đầu giường, góp phần hình thành nên nhân cách của cả một thế hệ như Thép đã tôi thế đấy, Chiến tranh và hòa bình… Hiện nay, dường như các cuốn sách đó ít được nhắc đến. Các bạn trẻ bây giờ đọc về thời cuộc rất nhiều, tham gia mạng xã hội rất nhiều… nhưng dường như chưa được chăm lo cung cấp và định hướng thông tin ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Tôi nghĩ rằng đó là vấn đề của các nhà quản lý, của báo chí truyền thông cần cung cấp thông tin cho thanh niên một cách đầy đủ, chính xác và tự các bạn thanh niên sẽ nhận thức được nên đọc gì, làm gì. Chúng ta chỉ sợ các bạn trẻ bàng quan với thời cuộc.

* Chị gái ông, bà Nguyễn Thanh Hà, từng nhận xét em trai mình hồi nhỏ “rất bướng bỉnh, nghịch ngợm…”. Cha ông – Đại tướng Nguyễn Chí Thanh – từng gọi ông là “binh bét”… Ông có thể chia sẻ điều gì về kỷ niệm tuổi thơ?

- Từ khi 4 tuổi, tôi đã được ba thêu trên ve áo hai miếng dạ màu đỏ không sao không gạch. Ba gọi chức của con trai là “binh bét” và luôn bảo rằng khi lớn lên con đường của tôi là đi bộ đội. Nay mang trên vai quân hàm thượng tướng, tôi rất tự hào và biết ơn Đảng, Nhà nước, biết ơn quân đội. Nhưng niềm tự hào theo suốt cuộc đời tôi, đã ăn vào máu thịt tôi từ thủa ấu thơ chính là chức “binh bét” mà ba tôi đặt. Niềm tự hào ấy còn được nhân lên khi tên tôi cũng chính là tên khai sinh của ba tôi: Nguyễn Vịnh.
Tôi là con người của đời thường với ba chỗ dựa: công việc, những người thân và bản thân mình. Tôi tự tin vào chính mình, nếu không làm nghề này thì cũng có thể làm việc khác, nhưng dù làm nghề gì đi nữa thì số phận cũng đã sắp đặt cho tôi, suốt đời tôi chỉ là một người lính. Và cũng như bất cứ người Việt Nam nào, tôi quan tâm đến tương lai đất nước. Dù ở thời đại nào, sự mất còn của đất nước, thịnh suy của dân tộc đều gắn với trách nhiệm của mỗi người dân bình thường đối với đất nước. Đó là điều tôi luôn quan tâm và hướng tới.

“Báo chí thường muốn tiếp cận các nhà lãnh đạo hoặc các tướng lĩnh để có thông tin đầu nguồn. Nhưng tôi phải nói rằng chính những người lãnh đạo cần đến các cơ quan truyền thông, để đảm bảo nhân dân mình hiểu chúng ta đã và đang làm gì hoặc định làm gì” – Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh.

ĐÀ TRANG – VÕ VĂN THÀNH – LÊ KIÊN (Theo Tuoitre)

Thứ Sáu, 6 tháng 1, 2012

Thế nào là rửa tiền ?

Theo thiếu tướng Nguyễn Ngọc Anh (Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Công an), rửa tiền là hành vi tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào giao dịch tài chính, ngân hàng hoặc giao dịch khác nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản...

Ngày 7/2, Thông tư Liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC, hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và tội rửa tiền sẽ có hiệu lực.
- Xin thiếu tướng cho biết thế nào là tội rửa tiền?
- Thông tư nêu rõ: Đó là hành vi tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào giao dịch tài chính, ngân hàng hoặc giao dịch khác liên quan đến tiền, tài sản nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản; là việc thực hiện, hỗ trợ thực hiện hoặc thông qua người khác để thực hiện, hỗ trợ.

- Những hành vi nào được coi là nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản?
- Đó là hành vi gửi tiền và mở tài khoản tại ngân hàng; cầm cố, thế chấp tài sản; cho vay, ủy thác, thuê, mua tài chính; chuyển tiền, đổi tiền; mua, bán cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác; bảo lãnh và cam kết tài chính, kinh doanh ngoại hối, các công cụ thị trường tiền tệ, chứng khoán có thể chuyển nhượng; quản lý tiền mặt hoặc chứng khoán thanh khoản thay mặt cho cá nhân, tập thể; đầu tư vốn hoặc tiền cho cá nhân, tập thể... Những hoạt động nhằm tạo sự chuyển đổi, chuyển dịch hoặc thay đổi quyền sở hữu đối với tiền, tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức.

- Sử dụng tiền thế nào được coi là rửa tiền?

- Người sử dụng tiền, tài sản biết rõ là do phạm tội mà có vào hoạt động kinh doanh dịch vụ, thành lập công ty, xây dựng trường học, bệnh viện, mua tài sản dưới các hình thức khác nhau hoặc sử dụng dưới danh nghĩa tài trợ, từ thiện, viện trợ nhân đạo.
- Thông tư còn hướng dẫn xử lý về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, xin thiếu tướng giải thích rõ việc này?
- Thông tư quy định “tài sản do người khác phạm tội mà có” là tài sản do người phạm tội có được trực tiếp từ việc thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: tài sản chiếm đoạt được, tham ô, nhận hối lộ…) hoặc do người phạm tội có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ việc họ thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: xe máy có được từ việc dùng tiền tham ô để mua).
Tài sản bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản; bất động sản, động sản, hoa lợi, lợi tức, vật chính, vật phụ, vật chia được, vật không chia được, vật tiêu hao, vật không tiêu hao, vật cùng loại, vật đặc định, vật đồng bộ và quyền tài sản.
(Theo Công An Nhân Dân)

Thứ Năm, 5 tháng 1, 2012

Làm Luật Biểu tình để bảo đảm quyền của người dân

Làm Luật Biểu tình để bảo đảm quyền của người dân

Phiên chất vấn Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bắt đầu từ 10 giờ sáng 25-11 với 22 đại biểu (ĐB) QH lần lượt nêu câu hỏi. Sau đây là những vấn đề về Luật biểu tình:

ĐB Đỗ Văn Vẻ (Thái Bình) muốn biết về những căn cứ mà Chính phủ đề nghị QH xem xét đưa vào Luật Biểu tình vào chương trình xây dựng pháp luật? Thủ tướng đáp: Việc này là để thực hiện hiến pháp. Điều 69 quy định công dân được quyền biểu tình theo pháp luật nhưng chúng ta chưa có Luật Biểu tình. Thực tế cuộc sống hiện nay có nhiều cuộc đồng bào ta tụ tập đông người, biểu tình để bày tỏ ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị với chính quyền nhưng chúng ta chưa có luật để điều chỉnh.

“Cũng khó cho người dân khi thực hiện quyền được hiến pháp quy định và cũng khó cho quản lý của chính quyền, đã khó như thế sẽ nảy sinh lúng túng trong quản lý. Từ đó đã xuất hiện những biểu hiện mất an ninh trật tự, xuất hiện những việc lợi dụng để kích động, xuyên tạc gây phương hại cho xã hội” - Thủ tướng nói.

Thủ tướng cho biết Chính phủ đã ban hành Nghị định 38/2005 để điều chỉnh hiện tượng này nhưng nghị định hiệu lực pháp luật thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu, tầm mức như hiến pháp quy định và cũng chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế cuộc sống đang đặt ra.

Luật Biểu tình, theo Thủ tướng, phải phù hợp với hiến pháp, với đặc điểm lịch sử, văn hóa, điều kiện cụ thể của Việt Nam, phù hợp với thông lệ quốc tế và cũng để đảm bảo quyền tự do dân chủ của người dân. Luật đó cũng có yêu cầu là ngăn chặn những việc làm, những hành vi gây xâm hại đến an ninh trật tự, đến lợi ích của xã hội và nhân dân.

ĐB Lê Bộ Lĩnh (An Giang) hỏi về quan điểm và chủ trương của Chính phủ đối với việc người dân biểu thị lòng yêu nước trước những hành động của các thế lực bên ngoài vi phạm chủ quyền biển, đảo của Việt Nam. Thủ tướng cho hay: Chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước ta, của Chính phủ là luôn luôn trân trọng, hoan nghênh, khuyến khích, biểu dương, khen thưởng xứng đáng đối với tất cả hoạt động, việc làm của mọi người dân thật sự vì mục tiêu yêu nước, bảo vệ chủ quyền quốc gia. Nhưng đồng thời cũng không hoan nghênh và buộc phải xử lý nghiêm theo pháp luật đối với những hoạt động, những hành vi với động cơ lợi dụng danh nghĩa lòng yêu nước, lợi dụng danh nghĩa bảo vệ chủ quyền để thực hiện mục tiêu, mục đích gây phương hại cho đất nước, cho xã hội.

Những câu hỏi còn bỏ ngỏ


- ĐB Trần Văn Minh (Quảng Ninh) và ĐB Cù Thị Hậu (Hưng Yên) đề nghị cho biết việc xử lý trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong vụ việc Vinashin, đặc biệt là kết quả tái cơ cấu Tập đoàn Vinashin?

- ĐB Lê Như Tiến (Quảng Trị) hỏi: Chính phủ đặt mục tiêu xây dựng nhà Quốc hội kịp phục vụ 1.000 năm Thăng Long. Đến nay đã qua hơn một năm mà khung của tòa nhà mới thấp thoáng chuẩn bị nhô lên mặt đất. Bao giờ QH mới hết “hai nhờ” là họp nhờ một bộ, các cơ quan của QH làm việc nhờ nhà khách Chính phủ?...

Với những câu hỏi này, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết sẽ trả lời bằng văn bản trực tiếp đến các vị ĐBQH và “nếu cần thiết, chúng tôi sẽ công bố trả lời của tôi trên cổng thông tin của Chính phủ để đồng chí, đồng bào biết rõ...”.

Đòi chủ quyền Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: Đòi chủ quyền Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình

LTS: Phiên chất vấn Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bắt đầu từ 10 giờ sáng 25-11 với 22 đại biểu (ĐB) QH lần lượt nêu câu hỏi.
Vì không đủ thời gian nên Thủ tướng đã lựa chọn một số vấn đề trả lời trước cử tri cả nước: Chủ trương của Chính phủ trong việc bảo vệ chủ quyền ở biển Đông; căn cứ đề nghị QH xây dựng Luật Biểu tình và quan điểm của Chính phủ trước việc người dân biểu tình phản đối việc xâm phạm chủ quyền biển, đảo.

Đại biểu Lê Bộ Lĩnh (An Giang) mở màn: “Xin Thủ tướng cho biết những giải pháp cụ thể mà Chính phủ sẽ thực hiện trong thời gian tới để bảo vệ chủ quyền biển, đảo của chúng ta?”. Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Đặng Ngọc Tùng (Đồng Nai) hỏi tiếp: “Chính phủ đã có những giải pháp gì để ngư dân yên tâm bám biển, nhất là ở ngư trường truyền thống là ngư trường Hoàng Sa và Trường Sa để đẩy lùi những nước dùng sức mạnh thu hồi lưới, thuyền và bắt nhốt ngư dân ta?”.

Trả lời các ĐB, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói: Chúng ta phải giải quyết và khẳng định chủ quyền đối với bốn loại vấn đề trên biển Đông.

Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa của ta


Vấn đề thứ nhất là việc đàm phán phân định ranh giới vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ. Trong vịnh Bắc Bộ, sau nhiều năm đàm phán, ta và Trung Quốc đã đạt được thỏa thuận phân định ranh giới năm 2000, còn vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ nếu theo Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) thì thềm lục địa của nước ta có chồng lấn với đảo Hải Nam của Trung Quốc.

Từ năm 2006, hai bên đã tiến hành đàm phán, tới năm 2009 thì tạm dừng vì lập trường hai bên còn rất khác nhau. Đầu năm 2010, Việt Nam - Trung Quốc thống nhất nên tiến hành đàm phán những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển. Trong khi chưa phân định thì trên thực tế, với chừng mực khác nhau, hai bên cũng đã tự hình thành vùng quản lý của mình trên cơ sở đường trung tuyến. Cũng trên cơ sở này, chúng ta có đối thoại với Trung Quốc để bảo đảm cho việc an ninh, an toàn trong việc khai thác nghề cá của đồng bào chúng ta.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu tại phiên chất vấn và trả lời chất vấn. Ảnh: TTXVN

Vấn đề thứ hai phải giải quyết và khẳng định chủ quyền là vấn đề quần đảo Hoàng Sa. Chúng ta đã làm chủ thực sự hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa ít nhất là từ thế kỷ XVII, khi hai quần đảo này chưa thuộc bất kỳ một quốc gia nào. Năm 1956, Trung Quốc đưa quân chiếm đóng các đảo phía đông của quần đảo Hoàng Sa. Đến năm 1974, Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trong sự quản lý của chính quyền Việt Nam Cộng hòa lúc đó...

Lập trường nhất quán của chúng ta là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, chúng ta có đủ căn cứ lịch sử và pháp lý để khẳng định điều này. Nhưng chúng ta chủ trương đàm phán giải quyết đòi hỏi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình.

Tăng khả năng tự vệ của quân dân Trường Sa


Vấn đề thứ ba là quần đảo Trường Sa. Năm 1975, khi giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc, hải quân ta đã tiếp quản năm hòn đảo tại quần đảo Trường Sa. Sau đó, chúng ta tiếp tục mở rộng thêm lên 21 đảo với 33 điểm đóng quân. Ngoài ra, chúng ta còn xây dựng thêm 15 nhà giàn để khẳng định chủ quyền của chúng ta ở vùng biển này.

Việt Nam là quốc gia có số đảo đang đóng giữ nhiều nhất so với các quốc gia và các bên có đòi hỏi chủ quyền ở quần đảo Trường Sa. Việt Nam cũng là quốc gia duy nhất có cư dân đang làm ăn sinh sống trên một số đảo mà chúng ta đang đóng giữ.

Đối với việc thực hiện chủ quyền ở quần đảo Trường Sa, chủ trương của chúng ta là nghiêm túc thực hiện UNCLOS 1982, Tuyên bố ứng xử của các bên liên quan ở biển Đông (DOC) và các nguyên tắc thỏa thuận mới đây mà chúng ta đã ký kết giữa Việt Nam và Trung Quốc. Cụ thể là chúng ta yêu cầu các bên giữ nguyên trạng, không làm phức tạp thêm, gây ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định ở khu vực này.

Bên cạnh đó, chúng ta tiếp tục đầu tư nâng cấp hạ tầng kinh tế - xã hội và cơ sở vật chất, kỹ thuật ở những nơi chúng ta đang đóng giữ để cải thiện đời sống và tăng cường khả năng tự vệ của quân dân trên đảo…

Vấn đề lớn cuối cùng là phải giải quyết và khẳng định chủ quyền của chúng ta trong phạm vi 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo UNCLOS 1982.

Theo phapluattp

Nguyễn Tấn Dũng là ai?

Nguyễn Tấn Dũng (sinh ngày 17 tháng 11 năm 1949 tại Cà Mau) là Thủ tướng Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh.
Ông được Quốc hội bầu lên vị trí Thủ tướng Chính phủ từ ngày 27 tháng 6 năm 2006 sau khi Thủ tướng tiền nhiệm Phan Văn Khải quyết định về hưu. Ông tái đắc cử vị trí này vào ngày 25 tháng 7 năm 2007.
Nguyễn Tấn Dũng là nhà lãnh đạo cấp cao đầu tiên của Việt Nam thuộc thế hệ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 và cũng là Thủ tướng trẻ nhất khi nhậm chức (57 tuổi).


Tiểu sử của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng

Nguyễn Tấn Dũng có quê quán tại Thành phố Cà Mau, thuộc tỉnh Cà Mau. Là con thứ hai trong gia đình, Nguyễn Tấn Dũng còn được gọi với cái tên Ba Dũng. Ngày tham gia Cách mạng: 17-11-1961.
Nguyễn Tấn Dũng tham gia Quân đội Nhân dân Việt Nam, làm công tác văn thư, liên lạc, cứu thương, y tá, y sĩ. Nguyễn Tấn Dũng sau đó lần lượt giữ các chức vụ: Tiểu đội bậc trưởng (tương đương Trung sĩ), Trung đội bậc trưởng (Chuẩn úy), Đại đội bậc phó (Thiếu úy), Đại đội bậc trưởng (Trung úy) – Đội trưởng Đội phẫu thuật, Đại đội trưởng và Chính trị viên trưởng Đại đội Quân y thuộc Tỉnh đội Rạch Giá.
Nguyễn Tấn Dũng gia nhập Đảng Lao động Việt Nam vào năm 17 tuổi (ngày 10 tháng 6 năm 1967), (chính thức ngày 10 tháng 3 năm 1968).
Cuối năm 1969, nhờ người bạn chiến đấu Phan Trung Kiên, ông thoát chết trong một trận càn quét ở Cà Mau-Kiên Giang.
Nguyễn Tấn Dũng học khoá Bổ túc sĩ quan chỉ huy cấp Tiểu đoàn – Trung đoàn Bộ binh, và đảm nhiệm nhiệm vụ Thượng uý – Chính trị viên trưởng Tiểu đoàn Bộ binh 207 (Bí thư Đảng ủy Tiểu đoàn) và Đại uý – Chủ nhiệm Chính trị Trung đoàn Bộ binh 152 (Uỷ viên Thường vụ Đảng ủy Trung đoàn) chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và giúp bạn Căm- pu- chia. Thiếu tá – Trưởng Ban cán bộ (Phó Bí thư Đảng ủy Phòng Chính trị) của Bộ chỉ huy Quân sự Tỉnh Kiên Giang.

Sau Giải phóng 1975:
- Tháng 10-1981 đến tháng 12-1994: Nguyễn Tấn Dũng học trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc . Tỉnh uỷ viên- Phó Ban tổ chức Tỉnh uỷ Kiên Giang . Uỷ viên Thường vụ Tỉnh uỷ – Bí thư huyện uỷ Hà Tiên. Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ Kiên Giang . Phó Bí thư Tỉnh uỷ – Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Tỉnh, Đại biểu Hội đồng nhân dân Tỉnh Kiên Giang . Bí thư Tỉnh uỷ Kiên Giang, Bí thư Đảng ủy Quân sự Tỉnh, Đảng ủy viên Đảng uỷ Quân khu 9 .
- Tháng 1-1995 đến tháng 5 -1996: Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Đảng ủy viên – Đảng uỷ Công an Trung ương.
- Tháng 6-1996 đến tháng 8-1997: Uỷ viên Bộ Chính trị và Uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị,  Trưởng Ban kinh tế Trung ương Đảng và phụ trách công tác Tài chính của Đảng.
- Tháng 9-1997 đến 6-2006: Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Ban cán sự Đảng Chính phủ – Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ . Chủ tịch Hội đồng Tài chính tiền tệ Quốc gia; Trưởng Ban chỉ đạo Tây Nguyên; Trưởng Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ; Trưởng Ban chỉ đạo Trung ương về Đổi mới Doanh nghiệp nhà nước; Trưởng Ban chỉ đạo Nhà nước về các công trình trọng điểm Quốc gia; Trưởng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tội phạm và Trưởng Ban chỉ đạo một số công tác khác. Năm 1998-1999 kiêm nhiệm nhiệm vụ Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bí thư Ban cán sự Đảng Ngân hàng Nhà nước .
- Ngày 16 tháng 5 năm 2006, Thủ tướng Phan Văn Khải đề cử Nguyễn Tấn Dũng làm người kế nhiệm mình trước phiên khai mạc kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XI. Ngày 27 tháng 6 năm 2006, Nguyễn Tấn Dũng được Quốc hội bầu làm tân Thủ tướng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Tháng 7-2006 đến nay: Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư ban cán sự Đảng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Trưởng ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh.
Đối với lịch sử Việt Nam, Nguyễn Tấn Dũng là vị Thủ tướng trẻ nhất của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Thủ tướng Việt Nam đầu tiên hội kiến Giáo hoàng.
Năm 2010, Việt Nam với trò chủ tịch luân phiên của ASEAN được đánh giá là thành công trong hoạt động ngoại giao và kết nối các thành viên được nhiều báo chí đánh giá là nhờ công lớn của ông.

Hoạt động và chính sách

Nguyễn Tấn Dũng có những nhiều thành công về mặt đối ngoại. Năm tháng sau khi nhậm chức, ông để lại dấu ấn đầu tiên trong nhiệm kỳ của mình với thành công của hội nghị APEC (tháng 11/2006). Tháng 5/2007, tạp chí World Business bình chọn Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là một trong 20 nhân vật cải cách của châu Á. Trong nhiệm kỳ Thủ tướng của Nguyễn Tấn Dũng, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và sau đó là thành viên luân phiên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc (nhiệm kỳ 2008/2009).

Trong cuộc Khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009, khi lạm phát cả năm của Việt Nam lên cao, ông Nguyễn Tấn Dũng đã thông qua gói kích cầu, theo Ngân hàng Phát triển châu Á nhận định thì gói kích cầu của Chính phủ đã có tác dụng tốt và kinh tế Việt Nam quý IV năm 2009 được đánh giá là hồi phục và tăng tốc.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũngđã điều hành rất thành công khi Việt Nam trong cương vị Chủ tịch ASEAN trong năm 2010.

Chính sách mà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đưa ra:

- Từng bước tiến dần đến chính phủ điện tử và công khai hóa các hoạt động của chính phủ.
- Mở rộng hợp tác trên mọi linh vực với tất cả các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
- Ký hợp đồng với Nga mua các tàu ngầm, máy bay chiến đấu Mic 29 và các loại vũ khí hạng nặng khác về trang bị cho Quân đội Việt Nam.
- Chính thức mời Nga hợp tác và giúp đỡ Việt Nam xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên với các điều kiện bảo đảm cần thiết.


Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đối thoại trực tiếp với nhân dân
Ngày 9/2/2007, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có buổi đối thoại trực tuyến với nhân dân trong và ngoài nước. Chủ đề đối thoại là “Vì một Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; Hội nhập thành công, phát triển bền vững”.

Người quyết đoán
Nguyễn Tấn Dũng là vị Thủ tướng trẻ và khỏe mạnh, một ngày ông có thể làm việc với một cường độ rất cao, lịch làm việc dày đặc.
Nguyễn Tấn Dũng là vị Thủ tướng mạnh mẽ, quyết đoán chỉ đạo thực hiện kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội bằng Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đứng ra thẳng thắn nhận trách nhiệm về Vinashin. Hiện nay Bộ công an đang tiếp tục điều tra và xử lý các quan chức của Tập đoàn có liên quan đến tiêu cực.

Các sự kiện chính xảy ra tại Việt Nam trong nhiệm kỳ

Có nhiều sự kiện quan trọng xảy ra tại Việt Nam trong (các) nhiệm kỳ của ông. Bao gồm:
- Khủng hoảng tiền tệ năm 2008: Đây là khủng hoảng xảy ra ngay trước khi Khủng hoảng Tài chính thế giới nổ ra.
- Khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008: ngay sau khi khủng hoảng lạm phát 2008 tại Việt Nam xảy ra, khi Chính phủ định thi hành chính sách kiềm chế lạm phát, thắt chặt tiền tệ thì khủng hoảng tài chính thế giới nổ ra. Khi hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới lâm vào khủng hoảng (như Mỹ, Châu Âu, các nước Châu Á (trừ Trung Quốc)), Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng, đặc biệt là về xuất khẩu. Chính phủ lập tức áp dụng 2 gói kích cầu.
- Tái cơ cấu Vinashin: khủng hoảng nợ tại Vinashin bùng phát vào tháng 5/2010 khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phải đưa ra quyết định tái cơ cấu Vinashin, cơ cấu lại các khoản nợ. Tập trung sản xuất hiệu quả hơn.
- Xây dựng quan hệ đối tác với Mỹ năm 2010.

Những kết quả

- Chính trị-xã hội ổn định, quyền dân chủ và quyền lợi chính đáng của nhân dân được tôn trọng, bảo đảm.
- Kinh tế tiếp tục tăng trưởng cao. Sức cạnh tranh, hiệu quả của nền kinh tế cũng có bước phát triển đáng kể. Đời sống nhân dân dần được nâng cao. Xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường có bước phát triển hơn.
- Văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân đạt được những kết quả tích cực.
- Cải cách hành chính, chống tham nhũng đạt được kết quả bước đầu.
- Quốc phòng an ninh được tăng cường.
- Công tác đối ngoại đạt được nhiều thắng lợi lớn, có ý nghĩa quan trọng. Sau hơn 11 năm kiên trì đàm phán, nước ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Chúng ta cũng đã tổ chức thành công Hội nghị APEC lần thứ 14 tại Việt Nam. Các nước châu Á ủng hộ Việt Nam trở thành thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Mỹ đã đưa Việt Nam ra khỏi danh sách các nước cần đặc biệt quan tâm về vấn đề tôn giáo và thông qua quy chế PNTR với Việt Nam. Thành tựu đó đã tạo ra thế và lực mới cho dân tộc, tạo ra thời cơ và thuận lợi để chúng ta tiếp tục phát triển trên các lĩnh vực, đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, để đến năm 2020 cơ bản trở thành một quốc gia công nghiệp theo hướng hiện đại. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã điều hành rất thành công khi Việt Nam trong cương vị Chủ tịch ASEAN trong năm 2010.

- Cải cách thủ tục hành chính là một nhiệm vụ trọng tâm. Phải công bằng nhìn nhận, thời gian qua, chúng ta đã đạt được nhiều tiến bộ trong cải cách thủ tục hành chính. Tuy nhiên, chúng ta đã tiến hành cải cách khá lâu nhưng vẫn còn nhiều yếu kém. Vẫn còn nhiều thủ tục gây phiền hà, cản trở đối với sự phát triển.
- Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện hiệu quả các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội như đã nêu trong Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ. Những quyết sách mới mạnh mẽ và dứt khoát đã được Chính phủ nêu trong Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 về những giải pháp chủ yếu ổn định kinh tế vĩ mô. Thông điệp nổi bật và đáng chú ý nhất của Nghị quyết chính là việc ổn định vĩ mô.

Theo Wikipedia

Sự thật buổi họp báo thủ tướng Hun Sen nói về Việt Nam

Kịch liệt bác bỏ ý kiến cho rằng quân đội Việt Nam “chiếm đóng” Campuchia (1979 – 1989), trong cuộc trả lời phỏng vấn báo chí, Thủ tướng Hun Sen đã bày tỏ quan điểm về cuộc chiến 10 năm tại Campuchia và trải lòng về những điều ông chiêm nghiệm.



- Thưa ông, tác giả Haish C. Mehta và Julie B. Mehta của cuốn “Hun Sen – Nhân vật xuất chúng” có kể lại rằng, ông đã “thể hiện sự phẫn nộ” khi có ý kiến đánh giá cuộc chiến 10 năm của VN ở Campuchia như là “xâm lược”. Theo ông, vì sao lại có một cách hiểu như vậy về cuộc chiến đó?
- Không riêng gì ông bà Mehta, mà nhiều người nói với tôi rằng, những đóng góp và giúp đỡ vô cùng to lớn của lực lượng quân sự Việt Nam đối với Campuchia trong vòng 10 năm từ 1979 đến 1989 đã bị cho là hành động “xâm lược”. Tôi kịch liệt bác bỏ điều này.
Sự hiện diện của quân đội Việt Nam ở Campuchia là nhằm đáp ứng yêu cầu của nhân dân Campuchia vì sự sống của nhân dân chúng tôi, điều đó đã dẫn đến sự hồi sinh của Campuchia ngày hôm nay.
Quốc vương Sihanouk cũng từng kêu gọi sự giúp đỡ của Việt Nam để đấu tranh chống lại Lon Nol. Khi chúng tôi đang phải đấu tranh chống lại chế độ diệt chủng Pol Pot, tại sao chúng tôi không thể kêu gọi nhân dân Việt Nam đến giúp chúng tôi?
Tôi xin hỏi, đã có đất nước nào giúp đỡ nhân dân Campuchia như Việt Nam đã từng làm? Không có. Chỉ có nhân dân và lực lượng vũ trang Việt Nam đã giúp đỡ Campuchia trong thời điểm khó khăn nhất.
- Vậy nên hiểu thế nào về việc 30 năm sau Liên Hợp Quốc mới tổ chức được một phiên tòa xét xử tội diệt chủng của chế độ Khơme đỏ và tại đó một số bị cáo đã cáo buộc quân tình nguyện Việt Nam trong việc giúp đỡ Campuchia là sai trái?
- Tôi đã nghe Noun Chea, một trong những cựu lãnh đạo chế độ Pol Pot được xét xử tại tòa án trong mấy tuần lễ vừa qua, không những không nhận lỗi lầm của mình mà còn tố cáo việc này, việc khác. Đây chỉ là những lời tự bào chữa, nhằm làm nhẹ tội của những kẻ sát nhân, diệt chủng mà thôi. Kẻ trộm không bao giờ thừa nhận rằng nó là tên ăn trộm.
Thủ tướng Campuchia Hun Sen: " Từ đáy lòng, tôi muốn gửi lời tri ân đến những cựu chiến binh Việt Nam và thân nhân những người Việt Nam đã hy sinh trong cuộc chiến tại Campuchia.".
Thủ tướng Campuchia Hun Sen: " Từ đáy lòng, tôi muốn gửi lời tri ân đến những cựu chiến binh Việt Nam và thân nhân những người Việt Nam đã hy sinh trong cuộc chiến tại Campuchia.".
Nếu Pol Pot là một tổ chức đúng đắn và nếu Việt Nam “xâm lược” thì cần gì phải có tòa án để xét xử chúng như hôm nay. Ai cũng biết, đất nước Campuchia từng có một chế độ diệt chủng và đất nước chúng tôi đã cùng với thế giới lập một tòa án để xét xử những kẻ gây ra tội ác.
Sự có mặt của quân đội Việt Nam tại Campuchia là nhằm giải phóng nhân dân Campuchia khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot và ngăn chặn nguy cơ chế độ Pol Pot quay trở lại. Khi Campuchia chúng tôi đủ lớn mạnh thì Việt Nam rút hết quân về nước. Và năm 1989, quân đội Việt Nam đã rút về nước. Hơn 20 năm qua đã không còn sự hiện diện của quân đội Việt Nam tại đất nước chúng tôi.
- Trong cuộc chiến 10 năm chống Pol Pot ở Campuchia, đã có hàng chục nghìn cán bộ, chiến sĩ Việt Nam hy sinh và bị thương. Nếu có một thông điệp gửi tới cựu chiến binh, thân nhân những người Việt Nam đã hy sinh trong cuộc chiến đó, ông sẽ nói gì?
- Nhân dịp kỷ niệm 33 năm ngày chiến thắng chế độ diệt chủng Pol Pot, từ đáy lòng, tôi muốn gửi lời tri ân đến những cựu chiến binh Việt Nam và thân nhân những người Việt Nam đã hy sinh trong cuộc chiến đó. Chúng tôi mãi mãi ghi ơn to lớn vì họ đã tham gia chiến đấu giành giật sự sống cho nhân dân Campuchia. Họ đã hy sinh tính mạng của mình vì sự sống, sự hồi sinh của chúng tôi, của nhân dân Campuchia.
Hiện nay, các hài cốt của chiến sĩ Việt Nam chưa được hồi hương toàn bộ. Chúng tôi cố gắng cùng cơ quan chức năng Việt Nam tích cực tìm kiếm bốc cốt để đưa họ về quê hương đất tổ. Chúng tôi phải có trách nhiệm làm những việc này vì lực lượng quân đội Việt Nam đã hi sinh vì đất nước Campuchia.
- Mối quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia được đánh giá là “tài sản vô giá”, nhưng một số người thường liên hệ mối quan hệ này đến nước thứ ba, xin cho biết ý kiến của ông?
- Quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia đã được xây dựng qua từng giai đoạn của lịch sử, đặc biệt là giai đoạn giải phóng đất nước khỏi chế độ Pol Pot đến ngày hôm nay. Mối quan hệ đó bị người ta xuyên tạc là Campuchia đang nằm dưới sự chỉ đạo của Việt Nam. Đảng đối lập ở Campuchia cũng nói là Trung Quốc, Mỹ đang lôi kéo Campuchia. Tôi đi Âu, Mỹ, người ta nói tôi nghiêng về phía họ. Tôi đi Trung Quốc người ta nói tôi nghiêng Trung Quốc, tôi sang Việt Nam họ nói tôi là nghiêng về Việt Nam. Tôi không hiểu. Người ta nghĩ Campuchia là một món hàng hay sao? Chúng ta cần quan hệ rộng lớn với các nước trên thế giới. Điều quan trọng xin nhấn mạnh là sự duy trì độc lập chính trị, đối ngoại, còn ai nói gì kệ họ. Chúng ta không cần nói, không cần bình luận gì. Chúng ta không thể đóng một cửa và mở một cửa, làm vậy khác nào tự trừng phạt mình.
- Giai đoạn nào trong cuộc đời ông đáng nhớ nhất? Khi còn là một chú tiểu, một chiến sĩ giải phóng đất nước, hay khi là một Thủ tướng?
- Điều mà tôi nhớ mãi không phải là khi tôi làm Bộ trưởng Ngoại giao hay Thủ tướng, mà là khi tôi bị thương ở một bên mắt. Tôi đã bị bất tỉnh một tuần, khi ấy tôi 23 tuổi. Tất cả các bạn đều đã trải qua thời thanh niên, chúng ta đều yêu quý thân thể mình, còn tôi thì đã mất một bên mắt và không bao giờ lấy lại được.
Sau đó là đứa con trai đầu của tôi đã chết vì bị một y tá làm rơi. Tôi là một người cha, vậy mà dưới thời Pol Pot họ đã không cho tôi đem xác con trai mình đi chôn. Bạn thử nghĩ xem như thế bạn sẽ đau đớn thế nào?
Có quá nhiều điều đáng để nhớ, nhất là cái ngày 20/6/1977, khi tôi phải lìa xa vợ đang mang thai 5 tháng để sang Việt Nam tìm đường giải phóng đất nước, nhờ có ngày ấy mà chúng tôi có được ngày hôm nay.
Tôi cũng không bao giờ quên được ngày 24/9/1978, 5 quả đạn đã bắn vào xe của tôi, may mắn chỉ nổ 1 quả cách xe tôi 3 thước.
Tôi cũng sắp kỷ niệm ngày cưới thứ 36 của mình rồi (5/1/1976). Lúc đó, chúng tôi cưới 1 lần 13 cặp. Trong chế độ Pol Pot, người ta không cho cưới theo cách truyền thống. Một kỷ niệm nữa là ngày chúng tôi có đứa con đầu tiên.
Kinh nghiệm cuộc đời của tôi là đừng bao giờ mất hy vọng, càng khó khăn, gian khổ càng phải cố gắng không bao giờ lùi bước.
- Ngoài công việc, ông còn sáng tác nhạc, ông có thể chia sẻ những sở thích của mình?
- Tôi thích chơi golf nhưng bận công việc nên tôi không thể chơi được. Tôi cũng thích sáng tác nhạc. Đến nay tôi đã sáng tác được hơn 200 bản nhạc, phần nhiều kể lại những gì đất nước chúng tôi đã trải qua.
Bản nhạc nổi tiếng nhất là “Cuộc đời của chú tiểu”. Bài hát không chỉ đúng với tôi mà còn đúng với nhiều người khác nữa. Tôi cũng sáng tác về cuộc đời của người nông dân, về nỗi khổ của người phụ nữ xa chồng… Đó không chỉ là nỗi buồn riêng của vợ chồng tôi mà còn là nỗi khổ của những người vợ, người chồng trong thời kỳ chế độ diệt chủng Pol Pot.
Còn khi về hưu tôi sẽ làm gì? Tôi vẫn thường tự hỏi mình như thế. Có lẽ tôi sẽ trở thành một nhà sáng tác và viết báo. Có thể lúc đó sẽ là những bài báo bán chạy nhất trên thị trường vì tôi sẽ viết về những câu chuyện bí mật mà tôi chưa tiết lộ.
- Sinh ra vào năm Thìn (năm 1952), nhiều sự kiện quan trọng trong cuộc đời của ông cũng gắn với năm Thìn, 2012 cũng là năm Thìn, ông có điều ước gì cho mình trong năm này?
- Năm nay là năm Thìn, đúng với năm sinh của tôi. Tôi hy vọng, đây là năm sẽ mang lại nhiều diễm phúc. Đứa con đầu sinh năm Thìn đã mất, người ta nói cha con không nên cùng tuổi. Tôi có 12 đứa cháu nhưng không có đứa nào tuổi Thìn. Tôi nghĩ, đứa cháu tuổi Thìn sẽ không kỵ với ông của nó. Vì vậy tôi ước, năm nay mình sẽ có thêm một đứa cháu ra đời. Năm Thìn cũng là năm sông Mekong thường có nước lớn. Tôi cũng hy vọng rằng, năm 2012, chúng ta sẽ thu hoạch được mùa gặt lớn.
- Là Thủ tướng trẻ nhất thế giới khi nhậm chức ở tuổi 33, ông có kinh nghiệm gì muốn chia sẻ?
- Khi 27 tuổi, tôi đã là Bộ trưởng Ngoại giao, ở tuổi này nhiều người chưa hoàn thành bậc đại học. Năm 33 tuổi, tôi trở thành Thủ tướng, và là một Thủ tướng trẻ nhất trên thế giới lúc nhậm chức. Theo tôi, vấn đề không nằm ở tuổi tác. Lớp trẻ hãy cứ phấn đấu theo đuổi ước mơ.
Tôi làm thủ Tướng đã được 27 năm rồi. Qua đúc kết kinh nghiệm, tôi nhận ra rằng, những người lãnh đạo cần mạnh dạn giao nhiệm vụ cho giới trẻ. Đừng nghĩ, trẻ tuổi thì không làm được gì. Đây là một quan điểm sai lầm. Tôi không chỉ nhắn nhủ cho giới trẻ mà tôi đang nói cho những người lãnh đạo. Giới trẻ có thể làm được tất cả. Những người lớn tuổi thành công nên trao kinh nghiệm cho giới trẻ để họ trải nghiệm. Tre già măng mọc, măng mà không mọc thì cả rừng tre sẽ chết.
- Thủ tướng Hun Sen sinh năm 1952 tại làng Peam Koh Sna, huyện Stung Trang, tỉnh Kompong Cham. Trải qua 6 năm học tại trường Tiểu học Peam Koh Sna, cha mẹ gửi ông lên Phnom Penh và sống nhờ tại một ngôi chùa để có thể theo học trường Lycée Indra Dhevi. Để có cái ăn, một giai đoạn dài ông giữ nhiệm vụ làm chú tiểu đi khất thực quanh vùng.
- Năm 1970, khi nội chiến diễn ra trên đất nước Campuchia, Hun Sen trở thành một chiến sĩ du kích và dần dấn thân vào sự nghiệp chính trị. Khi đã nhận ra quân du kích nằm dưới sự kiểm soát hoàn toàn của Khơme Đỏ, một chế độ tàn ác, giết người dã man, Hun Sen bắt đầu nhận ra theo họ là một sự sai lầm và tính cách chạy trốn.
- Rạng sáng 20/6/1977, Hun Sen vượt biên giới sang Việt Nam chạy trốn khỏi chế độ Pol Pot. Tại Việt Nam, ông đã nhận được sự giúp đỡ của Chính phủ và Nhân dân Việt Nam và bắt đầu xây dựng lực lượng từ những người Campuchia lánh nạn sang Việt Nam. Mặc khác, ông cũng bí mật trở về nước liên lạc với những chỉ huy cấp cao Khơme Đỏ khuyên họ đào ngũ gia nhập Mặt trận giải phóng dân tộc (được thành lập 2/12/1978).
- 7/1/1979, với sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam, Campuchia đã được giải phóng khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot.
- Năm 1979, khi mới 27 tuổi, Hun Sen trở thành Bộ trưởng Ngoại giao và 6 năm sau đó trở thành Thủ tướng Campuchia. Ở tuổi 33, ông trở thành Thủ tướng trẻ nhất trên thế giới lúc nhậm chức và cũng là người trên cương vị Thủ tướng lâu nhất châu Á (27 năm).
Thanh Hải – Tá Lâm