Thứ Năm, 10 tháng 5, 2012

Truyền hình Trung Quốc phát ngôn: Philippines là lãnh thổ không thể tách rời

Một phát thanh viên của truyền hình quốc gia Trung Quốc đã "sơ suất" hay "chủ ý" tuyên bố Philippines là một phần của lãnh thổ Trung Quốc. Vụ việc xấu hổ này diễn ra trong lúc căng thẳng giữa hai nước về chủ quyền trên Biển Đông đang gia tăng.



Tại phút thứ 1:35, nữ phát thanh viên Hòa Giai đã nói nhầm như sau: “Như tất cả chúng ta đều biết Philippines là một phần không thể tách rời của lãnh thổ Trung Quốc. Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với Philippines”.

Hòa Giai, phát thanh viên của đài truyền hình trung ương Trung Quốc CCTV đã đưa ra tuyên bố trên trong bản tin tối hôm thứ Hai và sau đó đoạn băng ghi lại bản tin đã được đưa lên mạng Internet.

Người phát thanh viên này định nói đảo Hoàng Nham (bãi cạn Scarborough) mà hai nước đều tuyên bố chủ quyền là một phần lãnh thổ của Trung Quốc.

“Tất cả chúng ta đều biết rằng Philippines là một phần không thể tách rời của Trung Quốc và Philippines thuộc về chủ quyền của Trung Quốc, đây là thực tế không thể tranh cãi”, nữ phát thanh viên nói trong bản tin và bản tin này sau đó đã bị rút khỏi trang web của kênh CCTV nhưng đoạn video của chương trình truyền hình này vẫn được đưa lên tại một số trang web trên mạng.

Người xem đã bàn tán, đùa cợt về vụ việc và cho rằng tinh thần dân tộc của cô phát thanh viên đã khiến cô mắc sai lầm đó nhưng cũng có không ít khán giả Trung Quốc tranh thủ "té nước theo mưa" và đưa ra những lời bình luận sặc mùi hiếu chiến.

“Cô phát thanh viên này thật đáng tuyên dương, một người rất yêu nước, cô ấy đã tuyên bố với cả thế giới rằng Philippines thuộc về Trung Quốc”, một tiểu blogger có tên helenjhuang bình luận.

“Chúng ta nên tấn công trực tiếp, đóng gói đồ đạc của ngài Aquino (Tổng thống Philippines) và lấy lại lãnh thổ không thể tách rời của chúng ta”, một người khác bình luận.

Một tiểu blogger khác có biệt hiệu kongdehua thì nói “Về cơ bản Philippines đã gây ra những rắc rối hết sức vô lý, nếu họ muốn một cuộc chiến tranh thì chúng ta sẽ chiến đấu, chẳng ai sợ họ cả”.

“Nếu mỗi người Trung Quốc chỉ cần nhỏ một bãi nước bọt, thì chúng ta sẽ nhấn chìm (Philippines)”, một bình luận khác xuất hiện.

Các quan chức của đài CCTV đã từ chối bình luận về sai sót của cô Hòa và cũng không cho biết liệu đài này đã đưa ra lời xin lỗi hay chưa.

Khi nhận xét về các tranh chấp chủ quyền và các phong trào ly khai ở Đài Loan, Tây Tạng, Tân Cương và các vùng biển quanh nước này, các nhà ngoại giao và truyền thông Trung Quốc vẫn thường gọi những vùng này là “phần không thể tranh cãi của chủ quyền và lãnh thổ Trung Quốc”.

Hôm thứ Hai, thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Phó Huỳnh tuyên bố Bắc Kinh đã sẵn sàng cho “bất kỳ sự leo thang nào” trong tranh chấp lãnh hải với Philippines khi căng thẳng giữa hai nước về bãi cạn Scarborough chưa có dấu hiệu suy giảm.

Thứ Tư, 9 tháng 5, 2012

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: Quyết định việc in tiền ở nước ngoài


Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ban hành Nghị định số 40/2012/NĐ-CP nêu rõ, Ngân hàng Nhà nước quy định việc cài đặt các yếu tố bảo an trên đồng tiền nhằm tăng cường khả năng chống giả.

Quy định nghiệp vụ phát hành tiền


Chính phủ vừa ban hành Nghị định 40/2012/NĐ-CP về nghiệp vụ phát hành tiền; bảo quản, vận chuyển tài sản quý và giấy tờ có giá trong hệ thống Ngân hàng Nhà nước, tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Theo đó, việc in, đúc tiền được thực hiện theo hợp đồng giữa Ngân hàng Nhà nước và các cơ sở in, đúc tiền trên cơ sở kế hoạch in, đúc tiền và tiêu chuẩn kỹ thuật từng loại tiền do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định.

Ngân hàng Nhà nước quyết định cơ cấu, lượng tiền in thêm
Ngân hàng Nhà nước quyết định cơ cấu, lượng tiền in thêm

Trường hợp thực hiện chế bản in, tạo khuôn đúc và in, đúc tiền Việt Nam ở nước ngoài, Ngân hàng Nhà nước trình Thủ tướng Chính phủ quyết định

Nghị định cũng nêu rõ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước căn cứ dự báo nhu cầu tiền mặt của nền kinh tế, nhu cầu tiền dự trữ phát hành, nhu cầu thay thế tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông hàng năm để quyết định cơ cấu, số lượng, giá trị tiền đang lưu hành cần in, đúc thêm.

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định việc cài đặt các yếu tố bảo an trên đồng tiền nhằm tăng cường khả năng chống giả.

Theo Nghị định, Ngân hàng Nhà nước lập Quỹ dự trữ phát hành và Quỹ nghiệp vụ phát hành trong hệ thống Ngân hàng Nhà nước.

Quỹ dự trữ phát hành được quản lý ở các kho tiền Trung ương và các kho tiền Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố. Quỹ nghiệp vụ phát hành được quản lý tại kho tiền Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước và các kho tiền Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố.

Bảo đảm an toàn kho tiền 24 giờ/ngày


Về nguyên tắc bảo quản tiền, tài sản quý và giấy tờ có giá, Nghị định nêu rõ: tiền, tài sản quý và giấy tờ có giá trong hệ thống Ngân hàng Nhà nước, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được bảo quản trong kho tiền, phân loại, kiểm đếm, đóng gói, niêm phong và được sắp xếp riêng ở từng khu vực trong kho tiền. Kho tiền được canh gác, bảo vệ thường xuyên, đảm bảo an toàn 24 giờ/ngày.

Về việc thu hồi và thay thế tiền, Thủ tướng Chính phủ quyết định việc đình chỉ lưu hành và thay thế các loại tiền trong lưu thông. Căn cứ quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng về: chủ trương của Chính phủ về đình chỉ lưu hành và thu hồi tiền đình chỉ lưu hành từ lưu thông; thay thế một phần hay toàn bộ các loại tiền đang lưu hành; hình thức, thủ tục, thời hạn thu hồi các loại tiền đình chỉ lưu hành.

Ngân hàng Nhà nước tổ chức thu hồi các loại tiền đình chỉ lưu hành theo quy định. Các loại tiền thu hồi được đổi lấy các loại tiền khác với giá trị tương đương trong thời hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định.

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 26/6/2012

Bách Thảo

Thứ Sáu, 4 tháng 5, 2012

Không để đất đai là cái mầm sinh ra bất ổn


Những biến dạng vô đạo, bất nhân, trái luật như trên và tham nhũng tràn lan phần nhiều cũng từ nguyên do của nguồn lợi đất đai và dự án. Lắm tiền nhiều của do việc chiếm đất thì mới nảy sinh ra sự gia tăng các hiện tượng tiêu cực...

Sau các cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, nước ta tự hào là một nước nhỏ, nghèo, lạc hậu mà đã anh dũng kháng chiến chống giặc ngoại xâm, giành độc lập dân tộc, thu giang sơn về một mối. Đất nước hòa bình nhưng có một “cuộc chiến đất”. “Cuộc chiến” này lúc ngấm ngầm, lúc bột phát và có lúc gay gắt. Trái đất có một diện tích hữu hạn. Mỗi nước có diện tích nhất định, không được vượt qua biên giới, lãnh thổ. Trong lịch sử nhân loại, nếu nước này muốn rộng hơn, rắp tâm dùng sức mạnh vũ lực đi đánh chiếm nước khác - tất xảy ra chiến tranh xâm lược. Thế giới từ xưa đến nay các “cuộc chiến đất” xem như ở đâu cũng có.        

Trong lịch sử loài người, "cuộc chiến" về đất đai đã xảy ra rõ nét và ngày càng gay gắt chủ yếu từ khi công nghiệp phát triển. Khi mở ra phát triển công nghiệp, từ lạc hậu vươn lên hiện đại, 'cuộc chiến" đất đai đồng thời cũng phát sinh. Đó là xuất phát từ nhu cầu mở mang hạ tầng giao thông, khu công nghiệp, khu đô thị, cần phải có nhiều quỹ đất. Ở Nga, Anh, Pháp và nhiều nước tư bản khác đã nhiều thời kỳ rộ lên các "cuộc chiến" phức tạp về đất đai. Ở Mỹ, những năm cuối thế kỷ 19, đầu  thế kỷ 20, "cuộc chiến" đất đai đã xảy ra triền miên ở nước này do nhu cầu mở mang đường sắt, đường bộ và các nhà máy. Các chủ tư bản đua nhau đi tìm những “mồi đất” ngon. Vào thời đó, ở hầu khắp các bang của nước Mỹ đều bung ra các chiến dịch chiếm dụng đất. Và do đó, nhiều ông chủ đất bỗng nhiên giàu sụ rất nhanh. Tư bản do gốc vốn từ đất đai phát sinh ngày càng nhiều. Đọc lại lịch sử và các tác phẩm văn học, phim ảnh còn lưu truyền ta thấy rõ thêm những "cuộc chiến" đất đai đổ máu giữa nông dân với các chủ tư bản, giữa người đi khoanh đo, bao chiếm đất và người bị mất đất.

Ở nước ta, từ trước năm 1990, đất đai chưa có mấy giá trị. Có khi có đất bán nhưng không ai mua. Có khi đất hoang hóa cho không ai lấy. Khi đó, việc mua bán đất đai, kinh doanh địa ốc chưa bung ra thành nghề hấp dẫn để hốt vàng. Từ khi phát triển kinh tế thị trường với nhiều thành phần, kèm theo các nhu cầu phát triền công nghiệp, đô thị, lại có đầu tư nước ngoài rót vốn vào, đất đai bắt đầu trở thành hàng hóa đặc biệt, giá trị hơn vàng. Và theo đó, những cơn sốt đất liên tục tăng lên. Lợi nhuận lớn từ đất đã sinh ra lòng tham kèm theo biết bao tính toán với mục đích thu lợi ngày càng cao ở mọi tầng lớp xã hội.

Kinh doanh địa ốc, bên cạnh những phương thức chính đáng, minh bạch, hợp pháp, cũng xuất hiện hàng loạt các thủ đoạn, mánh lới. Nhiều “cò đất” hóa thành “cáo đất”. Không ít cán bộ lãnh đạo, quản lý hư hỏng lợi dụng chức quyền trở thành ông chủ đất giàu sang mà không bị lộ mặt. Luật Đất đai bị lợi dụng vào mục đích chiếm đoạt, làm giàu bất chính. Nhưng cái nguy là từ những thủ đoạn, mánh lới tìm chỗ hở để lách luật, nay việc lợi dụng và mệnh danh quyền quản lý, quyền sở hữu, quyền sử dụng đất đai đã sinh ra nhiều biểu hiện bẻ cong luật pháp, chọc thủng hàng rào luật pháp, thậm chí bất cần luật pháp, sẵn sàng ra tay làm theo luật rừng.

Đồng hành với phát triển kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hoá là nhu cầu ngày càng cao về quỹ đất. Không nắm quy luật đó sẽ sinh ra chủ quan, bị động, buông lỏng quản lý nhà nước về quỹ đất công, về thực hiện nhà nước pháp quyền trong lĩnh vực đất đai. Đất đai là một trong những nguyên nhân sinh ra nợ công, mà nợ công càng lớn thì con cháu đời sau càng phải chịu hệ lụy nặng gánh.

Khi những cán bộ có chức, có quyền thoái hoá, biến chất có sự móc nối, ăn chia lợi nhuận với đại gia thì họ bỗng nhiên tự biến mình thành “đại ca”. Đó là những cán bộ “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...” mà Nghị quyết Trung ương 4 của Đảng vừa chỉ rõ. Có lắm tiền thì thành đại ngôn nhiều khi lấn át cả pháp luật, lợi dụng chức vụ, quyền hạn mà ức hiếp dân, vi phạm dân chủ. Đó là cái bàn cờ đô-mi-nô của đất đai, gọi là “lục đại” của đất (đại tham, đại ác, đại lợi, đại gia, đại ca, đại ngôn). Cả 6 cái “đại” đó là một trong những nguyên nhân sinh ra những vụ khiếu kiện từ đất dấy lên. Rồi cũng do đất đai mà xã hội xuất hiện những vấn đề bất ổn do hậu họa của việc mua bán, sang nhượng, chuyển quyền sử dụng vi phạm pháp luật, xảy ra các vụ tranh chấp, có cả những vụ cướp đoạt trắng trợn. Bất công xảy ra, làm mất lòng dân phần lớn do việc thực thi pháp luật không nghiêm minh, giải quyết thiếu công bằng. Có những kẻ chiếm dụng đất sai luật, lợi mình hại người, nhưng lại được bao che, dung túng với nhiều thủ đoạn, dạng thức rất phức tạp. Nhiều “cò đất, cáo đất” chỉ lòng vòng xách văn bản hợp đồng, cả những “dự án ma”, đi xin chữ ký mà chẳng mấy chốc trở thành đại gia.

Những biến dạng vô đạo, bất nhân, trái luật như trên và tham nhũng tràn lan phần nhiều cũng từ nguyên do của nguồn lợi đất đai và dự án. Lắm tiền nhiều của do việc chiếm đất thì mới nảy sinh ra sự gia tăng các hiện tượng tiêu cực, hối lộ, nhận hội lộ, rồi mua bán chức quyền, ăn chơi xa xỉ, mất hết bản chất cách mạng của người cộng sản chân chính. Đã có không ít cán bộ, đảng viên có chức, có quyền phê duyệt, hoặc chỉ đạo giải quyết đất đai đã nhanh chóng mất bản lĩnh về chính trị, tư tưởng, vi phạm nguyên tắc hoạt động của Đảng, những lời dạy về đạo đức, lối sống. Suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, nhân cách từ đó mà ra. Trong khi đó, nhiều hộ nông dân bị mất đất, bị bần cùng hóa. Tình trạng phân hóa giàu - nghèo trong xã hội ngày càng có những biểu hiện rõ nét.

Những mâu thuẫn phát sinh từ nguyên nhân đất đai, các vụ tranh chấp không được giải quyết căn bản và thiếu kịp thời mới có những biểu hiện lúc ngấm ngầm, khi bùng phát gay gắt, nhưng hầu như mọi phương cách giải quyết vẫn chỉ là tạm thời và nhiều khi còn tỏ ra bất lực. Nhiều khi, việc nỗ lực thực thi theo pháp luật bị chi phối bởi nhóm lợi ích và đồng tiền. Luật Đất đai ra đời, nhưng chưa thực sự phù hợp với cuộc sống và tốc lực phát triển nhanh của thị trường. Trong cuộc họp kết luận về vụ cưỡng chế đất ở Tiên Lãng (Hải Phòng), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói: “Những năm qua, chính sách pháp luật về đất đai có rất nhiều thay đổi. Từ năm 1987 đến nay, Luật Đất đai đã được ban hành mới 3 lần (1987, 1993, 2003) và sửa đổi 2 lần (1998, 2001). Hàng trăm văn bản dưới luật cũng được ban hành, sửa đổi nhưng vẫn còn không ít vấn đề chưa đủ rõ, thậm chí trùng chéo, mâu thuẫn. Trình độ, năng lực cán bộ quản lý đất đai, nhất là ở cơ sở còn nhiều hạn chế trong khi đất đai đang biến động rất nhanh, văn bản pháp luật về đất đai lại rất nhiều và phức tạp, nên công tác quản lý đất đai trong cả nước còn nhiều bất cập. Nhiều vấn đề phát sinh trong quản lý và sử dụng đất đai chưa được điều chỉnh và xử lý kịp thời; khiếu kiện về đất đai chiếm trên 70% tổng số vụ khiếu kiện và có nhiều vụ việc kéo dài”.

Trong thực trạng hiện nay, có thể thấy việc xử lý không kịp thời, đúng đắn những vấn đề bức xúc liên quan đến đất đai đang có nguy cơ trở thành một mầm mống sinh ra những bất công lớn và dẫn tới mất ổn định xã hội. Tình trạng này đang thực sự đẩy tới những tình huống báo động. Từ trong quan điểm, nhận thức, đặt ra nhu cầu cấp bách là phải dám mạnh dạn nhận diện cho rõ và kịp thời có những biện pháp thích hợp nhất để sửa lỗi hệ thống, sửa Hiến pháp, pháp luật. Lỗi hệ thống sinh ra do lý luận chưa theo sát thực tiễn, tư duy và phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành chưa theo kịp tốc lực phát triển của cuộc sống. Cho nên, xác định chủ trương, biện pháp cần phải kiên quyết, mạnh bạo để giải quyết kịp thời, có hiệu quả thì mới tạo được đà mới, sức mạnh mới để thoát ra khỏi nguy cơ cái mầm bất ổn do nguyên nhân từ đất đai đã nảy sinh và có nhiều biểu hiện đang lớn dần gây ra sức ì quá lớn kéo lùi tốc độ phát triển xã hội theo đường lối đổi mới của toàn Đảng, toàn dân ta.

Sửa từ Hiến pháp đến Luật Đất đai và các văn bản thực hiện luật, thực sự thể hiện tư thế của nhà nước pháp quyền. Mở rộng dân chủ, siết chặt kỷ cương phù hợp cuộc sống đang phát triển từng ngày với tốc độ nhanh là vấn đề cấp bách. Quản lý quỹ đất thế nào, giải quyết những tranh chấp đất ra sao để qua đó thực hiện công bằng xã hội đều tùy thuộc vào nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị. Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quyền lực quản lý, điều hành của Nhà nước, giải quyết các tranh chấp về đất đai phải đi từ cái gốc sâu xa nhất là vì lợi ích của người dân. Bởi ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích nào khác. Chỉ có như thế mới có thể thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thứ Năm, 3 tháng 5, 2012

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: không được dùng quân đội cưỡng chế đất đai


Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo các địa phương khi cưỡng chế thu hồi đất phải làm chặt chẽ, đúng pháp luật, không được dùng vũ khí nóng… Đặc biệt, Thủ tướng nhấn mạnh việc không được huy động lực lượng quân đội ở huyện, tỉnh vào cưỡng chế.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chủ trì hội nghị trực tuyến giải quyết khiếu nại, tố cáo
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chủ trì hội nghị trực tuyến giải quyết khiếu nại, tố cáo

Kết luận tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo với sự tham dự của lãnh đạo các bộ, ngành và 63 tỉnh, thành, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá công tác này thời gian qua đạt kết quả tích cực. Các vụ việc phức tạp tồn đọng kéo dài đã tập trung giải quyết được 66%, từ 1.052 vụ hiện còn lại 528 vụ. “Kết quả này góp phần ổn định tình hình chính trị xã hội, giữ gìn an ninh chính trị”, Thủ tướng đánh giá.

Bên cạnh kết quả đạt được, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng khiếu nại của nhân dân còn nhiều diễn biến phức tạp. Nhiều vụ việc tồn đọng kéo dài chưa giải quyết dứt điểm, không chỉ vậy những nảy sinh mới vẫn tiếp tục tăng lên. “Nếu như chúng ta chủ quan, xem thường, không tập trung giải quyết có hiệu quả sẽ là mầm mống dẫn đến mất ổn định an ninh trật tự”, Thủ tướng nói.

Thủ tướng yêu cầu cả hệ thống chính trị cùng vào cuộc để giải quyết có lý có tình, tận cùng những việc còn tồn đọng kéo dài. Hạn chế tối đa việc khiếu kiện đông người kéo đến trung tâm thành phố lớn, gây mất ổn định.

“Yêu cầu đặt ra như vậy không dễ dàng gì tuy nhiên chúng ta buộc phải làm có hiệu quả. Tôi đề nghị coi đây là việc quan trọng thường xuyên của chính quyền, phải tập trung chỉ đạo sâu sắc cụ thể từng việc một”, Thủ tướng yêu cầu.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo các địa phương phải lập hồ sơ tất cả 528 vụ còn tồn đọng. Trong đó phải chỉ rõ đã giải quyết những gì và hiện nay còn vướng cái gì? Phương hướng sắp tới còn giải quyết thế nào? Ngoài ra, phải lập cả hội đồng tư vấn, trong đó có mặt trận, các đoàn thể và luật sư thẩm định phương án. Từ đó xem xét chính quyền có sai trái gì không, nếu sai thì nhận lỗi và sửa chữa. Nếu không sai thì xem nhân dân thế nào từ đó có phương án giải quyết hỗ trợ cụ thể.

Qua báo cáo của các tỉnh, khiếu kiện chủ yếu do đất đai (chiếm 70%). Thủ tướng cho rằng vì lợi ích của đất nước, của toàn dân nên vẫn tiếp tục phải thu hồi đất để phát triển cơ sở hạ tầng; nhưng phải làm chặt chẽ, đúng pháp luật và phải thu hồi theo quy hoạch. Thủ tướng cũng chỉ đạo quy hoạch không được làm tùy tiện mà phải chặt chẽ rồi từ đó công khai cho nhân dân biết. “Từ quy hoạch cho tới khi phương án thu hồi đất, đền bù tái định cư phải đúng pháp luật, sát thực tế, đảm bảo dân chủ, công khai, đảm bảo sự đồng thuận trong nhân dân”, Thủ tướng nhấn mạnh.

Đặc biệt, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lưu ý việc thu hồi đất xây dựng khu đô thị phải đảm bảo lợi ích hài hòa giữa các bên vì khi chuyển từ đất nông nghiệp sang đất đô thị có giá trị hơn rất nhiều.

Kết thúc buổi làm việc, Thủ tướng lưu ý các địa phương phải làm hết lòng, hết trách nhiệm, hết sức đối với khiếu nại của nhân dân để họ thấy được lẽ phải, đồng tình chấp hành. Nếu dân có khó khăn thì tiếp tục hỗ trợ. Đối với những trường hợp cố tình không chấp thuận cũng phải làm hết cách, sau đó mới buộc phải cưỡng chế.

“Khi cưỡng chế, phải rất chặt chẽ, đúng pháp luật, với tinh thần không được dùng vũ khí nóng… Nhân đây tôi nói luôn là không được dùng quân đội vào cưỡng chế; bộ đội huyện tỉnh, không được tham gia cưỡng chế”, Thủ tướng nhấn mạnh phương án thực hiện cưỡng chế.

Thứ Tư, 2 tháng 5, 2012

Chính thức đính chính vụ "Nguyễn Thanh Phượng, Ecopark Văn Giang"


Ban biên tập nhận nguồn tin từ Cộng tác viên cho biết: Ngày 2/5/2012, Tổng giám đốc Công ty cổ phần đầu tư và phát triển đô thị Việt Hưng (nhà đầu tư thực hiện dự án Ecopark, đăng ký kinh doanh tại Hưng Yên) là ông Đào Ngọc Thanh, đã ban hành công văn số 83/CV-VH gửi các cơ quan thông tấn báo chí, đài phát thanh, truyền hình Trung ương và địa phương trong cả nước với mong muốn các cơ quan truyền thông giúp ông Đào Ngọc Thanh làm sáng tỏ thông tin về việc bà Nguyễn Thanh Phượng với nội dung:

Nguyen Thanh Phuong - Ecopark
Hình ảnh công văn của công ty “Cổ phần đầu tư và phát triển đô thị Việt Hưng” gửi cơ quan báo chí

Nội dung trong bản công văn được ông Đào Ngọc Thanh khẳng định rõ: “Sau khi cưỡng chế đất đai ở Văn Giang, Hưng Yên. Ngày 24/4/2012, trên mạng Internet xuất hiện một số thông tin cho rằng “Công ty Cổ phần đầu tư và phát triển đô thị Việt Hưng” (nhà đầu tư thực hiện dự án Ecopark, đăng ký kinh doanh tại Hưng Yên) và Công ty CP phát triển Bất động sản Việt Hưng là một”.

Trước thông tin này, Tổng giám đốc khẳng định “Công ty Cổ phần đầu tư và phát triển đô thị Việt Hưng hoàn toàn không liên quan gì tới Công ty CP phát triển Bất động sản Việt Hưng”, mọi thông tin về pháp lý của công ty, hoàn toàn có thể kiểm chứng tại cổng thông tin Doanh nghiệp và đầu tư Hưng Yên. Đường dẫn: http://hungyenbusiness.gov.vn. Và kể từ năm 2003 thành lập công ty đến nay, “Công ty Cổ phần đầu tư và phát triển đô thị Việt Hưng” (Vihajico), chưa từng thực hiện phát hành cổ phiếu ra công chúng bất kỳ lần nào. Tổng giám đốc công ty hiện nay là ông Đào Ngọc Thanh, cùng Chủ tịch Hội đồng quản trị là ông Lương Xuân Hà, chứ không phải theo một số tin đồn thất thiệt là Bà Nguyễn Thanh Phượng mà cộng đồng mạng đã đồn đoán.

Chúng tôi khẳng định bà Nguyễn Thanh Phượng hoàn toàn không liên quan gì tới dự án Ecopark, cũng như không có bất cứ vai trò pháp lý nào trong Công ty Cổ phần đầu tư và phát triển đô thị Việt Hưng.

Nội dung chi tiết bản công văn của Công ty cổ phần đầu tư và phát triển đô thị Việt Hưng:
Công ty CP ĐT-PT đô thị Việt Hưng đính chính về vụ việc Ecopark - Trang 1
Công ty CP ĐT-PT đô thị Việt Hưng đính chính về vụ việc Ecopark - Trang 1

Công ty CP ĐT-PT đô thị Việt Hưng đính chính về vụ việc Ecopark - Trang 2
Công ty CP ĐT-PT đô thị Việt Hưng đính chính về vụ việc Ecopark - Trang 2


Cộng tác viên gửi cho Ban biên tập Website Nguyễn Tấn Dũng

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nghe báo cáo về vụ cưỡng chế đất Văn Giang


Tại hội nghị trực tuyến toàn quốc về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo sáng nay, Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh Hưng Yên Nguyễn Khắc Hào đã báo cáo Thủ tướng vụ cưỡng chế, thu hồi đất ở huyện Văn Giang.



Theo ông Nguyễn Khắc Hào, trong 8 vụ việc khiếu kiện phức tạp kéo dài ở Hưng Yên hiện nay, có 6 vụ cá biệt dai dẳng, 2 vụ đông người. Đặc biệt và điển hình nhất là công dân 3 xã Cửu Cao, Phụng Công, Xuân Quan thường xuyên lôi kéo đông người lên tỉnh, các cơ quan TƯ để kiến nghị và tố cáo 9 nội dung liên quan đến dự án khu đô thị thương mại du lịch Văn Giang (Ecopark).

Ông Hào đã dành hơn 10 phút để báo cáo về vụ việc này với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.

VietNamNet trích đăng báo cáo này:

Dự án khu đô thị Văn Giang được phê duyệt và thực hiện từ năm 2004 theo công thức sử dụng quỹ đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng, trình tự thủ tuch thực hiện triển khai tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật, được địa phương, các bộ ngành hữu quan của TƯ thẩm định kỹ lưỡng. Dự án có quy mô đầu tư, hạ tầng đồng bộ, hiện đại, từ dự án này, tạo vốn xây dựng tuyến đường liên tỉnh Hà Nội – Hưng Yên, có ý nghĩa quan trọng trong phát triển KTXH không chỉ của Văn Giang mà còn cả của Hưng Yên và vùng Thủ đô Hà Nội. Chủ trương là đúng đắn, nhằm phát triển KTXH, đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh Hưng Yên, phù hợp quy hoạch tổng thể phát triển KTXH tỉnh đến năm 2020, quy hoạch vùng tỉnh Hưng Yên đến 2020 và định hướng 2030, quy hoạch vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và quy hoạch vùng Thủ đô Hà Nội.


Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh Hưng Yên Nguyễn Khắc Hào báo cáo Thủ tướng vụ cưỡng chế, thu hồi đất ở huyện Văn Giang
Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh Hưng Yên Nguyễn Khắc Hào báo cáo Thủ tướng vụ cưỡng chế, thu hồi đất ở huyện Văn Giang. Ảnh: Chung Hoàng

Triển khai dự án, UBND tỉnh và các nhà đầu tư đã rất quan tâm áp dụng các chính sách đền bù hỗ trợ giải phóng mặt bằng và các biện pháp giải quyết việc làm cho người dân bị thu hồi đất, thực hiện theo đúng pháp luật, chế độ tại thời điểm. Dự án được thực hiện với cơ chế chính sách đền bù hỗ trợ cao nhất tại thời điểm trên địa bàn tỉnh và là dự án duy nhất được giao đất đền bù liền kề để chuyển đổi nghề nghiệp cho người dân có đất bị thu hồi.

Sau khi dự án được phê duyệt vào năm 2004, năm 2009 tỉnh mới bàn giao được đợt 1 cho nhà đầu tư 57,19 ha để làm đô thị và làm đường giao thông liên tỉnh, nhà đầu tư đã cơ bản hoàn thành đầu tư xây dựng các hạng mục công trình trên diện tích đất đã giao theo đúng quy hoạch được duyệt và phát huy hiệu quả. Đến nay đã có 3852/4876 hộ của 3 xã đã nhận tiền đền bù hỗ trợ, chiếm 79%. Còn 1024 hộ chưa nhận, bằng 21%. Tuy vậy, đến nay đã hơn 8 năm, tỉnh vẫn chưa hoàn thành việc chuyển giao đất cho nhà đầu tư, do người dân khiếu kiện liên tục, tụ tập đông người, lôi kéo kích động, cản trở, không hợp tác, gây nên tình hình phức tạp kéo dài ở 3 xã của huyện Văn Giang trong năm qua, ảnh hưởng tới sản xuất, đời sống của nhân dân.

Tôi xin báo cáo chi tiết thêm về việc ngày 24/4/2012 vừa qua đã hỗ trợ thi công và cưỡng chế giải phóng mặt bằng để bàn giao đất cho dự án.

Diện tích đất canh tác xã Xuân Quang là 294,6ha, diện tích đất thu hồi để triển khai dự án 129,ha, 107ha đất nông nghiệp, chiếm 36,32% diện tích đất canh tác. Đợt 1 đã bàn giao 57,19ha và vừa rồi bàn giao 72ha. Tổng số hộ đã nhận tiền đền bù hỗ trợ và tự nguyện bàn giao đất là 1554/1720 hộ, chiếm 95,5%. Còn lại chỉ còn 5,8ha của 166 hộ chưa nhận tiền đền bù hỗ trợ, chiếm 4,5% phải tiến hành cưỡng chế. Số hộ trên vẫn còn diện tích đất canh tác chứ không phải thu hồi toàn bộ.

Sau gần 8 năm, các cấp các ngành của tỉnh đã tập trung xem xét giải quyết thoả đáng những kiến nghị chính đáng của người dân, đồng thời trả lời những tố cáo sai sự thật, không có căn cứ. Hưng Yên đã kiên trì tuyên truyền vận động thuyết phục từng hộ dân. Gần đây sau nhiều tháng rà soát các trình tự, thủ tục pháp lý của dự án, các ngành chức năng chuẩn bị kỹ lưỡng, chặt chẽ các phương án đảm bảo an toàn, ngày 4-5/4 vừa qua, UBND huyện Văn Giang đã ra quyết định cưỡng chế đối với 5,8 ha của 166 hộ dân của xã Xuân Quan.

Chúng tôi nhận thức rằng khi đã có chủ trương đúng, hiệu quả KTXH cao, đúng các quy định của pháp luật, được đông đảo nhân dân đồng tình ủng hộ, thì không thể vì một số người chống đối mà không triển khai thực hiện chủ trương đó.

Ngày 22/4 vừa qua, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh, các cơ quan chức năng của tỉnh và sự hỗ trợ tích cực của Bộ Công an, các lực lượng hỗ trợ thi công và cưỡng chế của huyện Văn Giang đã thực hiện tốt các phương án đề ra, đảm bảo an toàn về người và tài sản.

Sau cưỡng chế, tình hình nhân dân 3 xã ổn định, nhiều hộ dân không nhận tiền hỗ trợ đền bù đã nhận ra sai lầm vì nghe nhóm chống đối xúi giục và kích động.

Từ việc khiếu kiện đông người của một bộ phận người dân ở 3 xã trong vùng dự án ở Văn Giang đến việc tổ chức cưỡng chế vừa rồi, chúng tôi xin rút ra một số nhận thức và bài học bước đầu trong lãnh đạo chỉ đạo và công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố cáo.

Thứ nhất là, phát huy dân chủ phải đi liền với kỷ cương pháp luật, trong từng vụ việc cụ thể cần được xem xét thấu đáo, có lý có tình, nhất là phải đúng quy định của pháp luật. Những người lợi dụng dân chủ, móc nối với những phần tử tiêu cực, bất mãn, phản động trong nước và nước ngoài, cố tình chống phá chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đi ngược lại lợi ích của nhân dân, kìm hãm sự phát triển, thì nhất định phải có biện pháp xử lý kiên quyết.

Trong vụ việc ở Văn Giang, có sự móc nối chặt chẽ với những phần tử chống đối ở nước ngoài. Các thông tin thậm chí còn được tường thuật tại chỗ, từng giờ, để tuyên truyền xuyên tạc, dàn dựng những video clip giả để vu khống, bôi nhọ chính quyền.

Thứ hai, về phía tỉnh, có sự chỉ đạo tập trung thống nhất cao của các cấp uỷ đảng, chính quyền, MTTQ, các đoàn thể. Tăng cường công tác tiếp công dân, coi trọng tuyên truyền, vận động nhân dân và không nóng vội. Chủ tịch UBND tỉnh đã tổ chức đối thoại trực tiếp với người dân 3 xã, quan tâm giải quyết các quyền và lợi ích chính đáng của người dân, theo đúng các quy định của pháp luật. Phối hợp chặt chẽ với báo chí và các cơ quan tuyên truyền. Trước khi thực hiện các biện pháp hỗ trợ thi công, cưỡng chế, Hưng Yên tổ chức họp báo với 21 cơ quan báo chí TƯ và tỉnh. Trong quá trình thực hiện, đảm bảo đúng trình tự pháp luật và tổ chức rà soát kỹ lưỡng các trình tự thủ tục trước khi thực hiện các biện pháp hỗ trợ thi công, cưỡng chế, đồng thời có những giải pháp chặt chẽ đảm bảo an toàn cho người và tài sản.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chủ trì Hội nghị trực tuyến về giải quyết khiếu nại, tố cáo


Ngày 2/5, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chủ trì Hội nghị Hội nghị trực tuyến toàn quốc về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Báo cáo tình hình, kết quả công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo từ năm 2008 – 2011 do Tổng Thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh trình bày tại Hội nghị cho thấy, trách nhiệm trong chỉ đạo, lãnh đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo được nâng lên; công tác hoàn thiện cơ chế, chính sách góp phần hạn chế phát sinh khiếu kiện mới được quan tâm; công tác tiếp dân ở các tỉnh, thành phố đã được củng cố thêm một bước; giải quyết được khối lượng lớn vụ việc mới phát sinh và nhiều vụ đông người, phức tạp; việc phối hợp giữa các cơ quan ở Trung ương và địa phương được quan tâm hơn, nhất là xử lý các tình huống phức tạp phát sinh trong khiếu nại, tố cáo.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chủ trì Hội nghị trực tuyến về giải quyết khiếu nại, tố cáo
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chủ trì Hội nghị trực tuyến về giải quyết khiếu nại, tố cáo

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo còn những hạn chế, yếu kém như, một số địa phương chưa tổ chức tốt việc tiếp công dân, chưa gắn công tác tiếp công dân với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhất là ở cấp huyện; nhiều vụ việc giải quyết còn chậm; một số vụ việc giải quyết không đúng chính sách, pháp luật và thực tế; nhiều địa phương chỉ chú trọng đến việc giải quyết hết thẩm quyền mà chưa quan tâm đến giải quyết dứt điểm; còn hiện tượng né tránh, đùn đẩy, thấy sai phạm nhưng chưa có biện pháp khắc phục…
Trong thời gian từ năm 2008 – 2011, các cơ quan hành chính nhà nước đã tiếp trên 1.571.500 lượt người đến khiếu nại, tố cáo và tiếp nhận, xử lý 672.990 đơn thư. Năm 2011 so với năm 2008, số vụ việc tăng 26,4%; đoàn đông người 64,5%.
Cụ thể, kết giải quyết khiếu nại theo thầm quyền; các cơ quan chức năng đã giải quyết 257.419/290.565 vụ việc khiếu nại (đạt trên 88%). Qua phân tích cho thấy, số vụ khiếu nại đúng chiếm 19,8%; số vụ khiếu nại đúng, có sai chiếm 28%; khiếu nại sai chiếm 52,2%.
Về giải quyết tố cáo, đã giải quyết 33.160/39.107 vụ việc tố cáo (đạt trên 84%). Qua phân tích cho thấy, có 16,2% đơn tố cáo đúng, 29,6% đơn tố cáo có đúng, có sai; 54,2% đơn tố cáo sai.
Qua công tác giải quyết khiếu nại tố cáo, đã thu hồi về cho nhà nước gần 1.026 tỷ đồng, 1.241 ha đất; khôi phục quyền lợi cho 6.659 công dân với số tiền 595 tỷ đồng, 936 ha đất; kiến nghị xử lý hành chính 2.951 người; chuyển cơ quan điều tra 239 vụ, 382 người.

Về giải quyết các vụ việc tồn động, bức xúc, kéo dài; các Bộ, ngành, địa phương đã kiểm tra, rà soát, giải quyết dứt điểm được 1.052 vụ việc tồn động, bức xúc, kéo dài (đạt 66,7%). Hiện còn lại 528 vụ việc đang được tiếp tục xem xét, giải quyết.

Theo đánh giá, về tính chất, mức độ phức tạp, mặc dù so với những năm 2006-2007 tình hình khiếu nại tố cáo từ năm 2008 – 2011 ở một số địa bàn có giảm, nhưng về tổng quan, tình hình khiếu nại tố cáo diễn biến phức tạp và bức xúc ở nhiều nơi. Có lúc, có nơi đặc biệt phức tạp, gay gắt, biểu hiện rõ nhất là số đoàn đông người tăng mạnh, thái độ công dân đi khiếu kiện thiếu kiềm chế, khiếu nại tố cáo vượt cấp lên Trung ương gia tăng, tình trạng đơn thư gửi tràn lan mang tính phổ biến. Có nhiều vụ việc phát sinh từ những năm trước, đã được xem xét, giải quyết nhưng công dân vẫn khiếu kiện kéo dài, nhất là các vụ việc khiếu nại về thu hồi đất, đòi lại đất cũ, tranh chấp đất đai…

Đồng thời, có hiện tượng những người, nhóm người khiếu nại “liên kết” với nhau để khiếu nại đông người. Một số trường hợp có sự xúi giục, kính động của các thế lực thù địch nhằm lôi kéo những người đi khiếu nại liên kết đông người có những hành vi quá khích, gây rối.

Tình hình khiếu nại tố cáo nêu trên đã ảnh hưởng đến an ninh, trật tự và tiềm ẩn những nguy cơ làm mất ổn định chính trị-xã hội tại một số địa phương trong một số thời điểm.

Nội dung khiếu nại, tố cáo của công dân chủ yếu liên quan đến đất đai (chiếm 70%), trong đó nhiều nhất là khiếu nại việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế-xã hội; khiếu nại đòi đất cũ, tranh chấp đất đai trong nhân dân qua các thời kỳ nhưng chưa được giải quyết dứt điểm; khiếu nại đòi nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, đòi nhà thuộc diện thực hiện các chính sách về quản lý nhà…
Nguyên nhân dẫn đến khiếu nại tố cáo có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong đó về khách quan có, chính sách bồi thường cho người có đất bị thu hồi còn nhiều bất cập (giá bồi thường thấp, hay thay đổi, thiếu nhất quán…); có sự chênh lệch quá lớn giữa giá đất bồi thường so với giá trị trường hoặc giá nhà đầu tư bán; ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận nhân dân còn hạn chế nên đòi hỏi quá đáng hoặc bị các phần tử xấu lợi dụng kích động khiếu kiện kéo dài…  về chủ quan, công tác quản lý đất đai còn sơ hở, lòng lẻo; nhiều cán bộ lợi dụng tham nhũng, tiêu cực nhưng không bị xử lý nghiêm minh; chưa làm tốt công tác tuyên truyền, vận động thuyết phục, giải thích, hài hòa ngay từ cơ sở; chưa tập trung giải quyết khiếu kiện ngay từ đầu; công tác giám sát của cơ quan dân cử, của các tổ chức chính trị xã hội đối với công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố cáo chưa thường xuyên;…

Về phương hướng, nhiệm vụ công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thời gian tới, Thanh tra Chính phủ xác định nhiệm vụ chủ yếu trong thời gian tới là tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo; chủ động xử lý các nhiệm vụ về khiếu nại, tố cáo; kiểm soát tốt tình hình khiếu nại, tố cáo, không để xảy ra “điểm nóng”; đối với các vụ việc phát sinh mới tập trung giải quyết đạt tỷ lệ trên 85%.

Cùng với đó là tiếp tục rà soát, giải quyết dứt điểm các vụ việc tồn đọng, bức xúc, kéo dài.

Từ nhiệm vụ nêu trên, Thanh tra Chính phủ đề ra 6 giải pháp là tăng cường công tác quản lý đất đai nhằm hạn chế phát sinh khiếu nại, tố cáo trên lĩnh vực này; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; củng cố, kiện toàn tổ chức, hoạt động của các cơ quan làm nhiệm vụ tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo; đảm bảo an ninh, trật tự trong giải quyết khiếu nại, tố cáo; tăng cường sự phối hợp giữa Trung ương và địa phương trong giải quyết khiếu nại, tố cáo và cuối cùng là tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại tố cáo để nâng cao hiểu biết pháp luật về khiếu nại, tố cáo của cán bộ, nhân dân.

Tại Hội nghị, Thanh tra Chính phủ cũng kiến nghị Bộ Chính trị chỉ đạo tổ chức tổng kết việc thực hiện Kết luận 130-TB/TW ngày 10/01/2008 của Bộ Chính trị; các cơ quan có thẩm quyền đẩy nhanh việc sửa đổi, bổ sung chính sách pháp luật về đất đai; tiếp tục thực hiện Đề án “Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về khiếu nại, tố cáo cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn”; Quốc hội cần sớm ban hành Luật về Tiếp công dân, Luật về biểu tình làm cơ sở đấu tranh, xử lý những trường hợp lợi dụng khiếu nại, tố cáo gây rối…Hội nghị sẽ diễn ra trong hết ngày 2/5./.

Theo chinhphu.vn